I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Quang Dũng đã dành khổ thơ thứ ba (8 dòng) để khắc họa nổi bật chân dung người lính Tây Tiến. Thực ra, cả bài thơ dòng nào cũng lấp lánh sáng lên vẻ đẹp của người chiến binh nhưng đến khổ thơ thứ ba này, chân dung chiến binh Tây Tiến mới thực sự hoàn tất. Trước mắt chúng ta hiện lên hình ảnh những con người anh hùng - nghệ sĩ, can trường mà đa tình, kiểu con người dấn thân trận mạc mà cốt cách vẫn hào hoa:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Chi tiết người chiến binh “không mọc tóc”, chân thực mà độc đáo, gợi nhớ những anh “Vệ trọc” hồi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Người lính vệ quốc thuở ấy cắt tóc ngắn ba phân (gọi là “húi cua”) để đảm bảo vệ sinh. Nhưng rồi thời tiết, khí hậu nơi rừng thiêng nước độc và nhất là bệnh sốt rét ác tính đã cướp đi mái tóc tuổi xanh và vẻ đẹp ngoại hình của người lính Tây Tiến. Cái đầu “không mọc tóc” ấy là bằng chứng của sự vất vả, gian khổ mà các chiến binh phải chịu đựng, đồng thời cũng là nét đặc trưng của anh bộ đội Tây Tiến. “Quân xanh màu lá” là một chi tiết chân thực nữa của người chiến binh. Da màu xanh do sốt rét mất hồng cầu và quân phục cũng xanh màu lá... Ngoại hình tiều tụy, nhưng không gợi cảm giác yếu ớt vì chiến binh vẫn “dữ oai hùm”. Ba từ này, nếu đứng riêng, mỗi từ đã tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ. Lúc đứng chung với nhau, chúng tạo nên dáng vẻ oai hùng. Chiến binh Tây Tiến vẫn oai phong lẫm liệt mặc dù ngoại hình có phần tiều tụy. Thủ pháp tương phản trong miêu tả được phát huy tối đa làm sáng lên vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ. Không giấu những gian khổ mà nhà thơ vẫn nói lên được dũng khí của chiến binh. Đưa các chi tiết chân thực cuộc sống chiến sĩ vào thơ là một thành công của Quang Dũng, mở ra một cách tiếp cận mới cho thơ ca lúc đó. Giọng thơ Quang Dũng có pha cách nói ngang tàng làm nổi bật sự kiêu hùng, tô đậm lòng kiên định, ý chí sắt đá của lính Tây Tiến: “bỏ quên đời”, “không mọc tóc”, “chẳng tiếc đời xanh”, “không hẹn ước”, “chẳng về xuôi”... Trong đoạn thơ này lại có sự đối lập đến từng chi tiết: “mắt trừng” là một hình ảnh rất dữ dội lại đi liền với “gửi mộng”, với “đêm mơ”, với “dáng kiều thơm”:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Vẻ đẹp của chiến binh Tây Tiến hiện lên vừa khỏe khoắn vừa lãng mạn. Những con người rất cứng rắn để đứng vững trên chiến trường gian khổ lại là những chàng trai hào hoa phong nhã, rất nhiều mộng mơ. Xông pha giữa chốn gian nan, chịu đựng bao nhiêu thiếu thốn, vất vả mà vẫn nhớ về Thăng Long đất cũ và nhớ nhất vẫn là những “dáng kiều thơm”. Cái đáng quý trong thơ của Quang Dũng là đã tạo nên dáng vẻ riêng của người lính Thủ đô, rất khác với những người lính gốc nông dân trong thơ của Chính Hữu (“Đồng chí”), hay Hồng Nguyên (“Nhớ”).”
(Trích Bàn thêm về bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng - Đặng Tương Như, theo baovannghe.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706192]: Đối tượng nghị luận của đoạn trích là gì?
Đối tượng nghị luận của đoạn trích: chân dung người lính Tây Tiến trong khổ thơ thứ ba của bài thơ.
Câu 2 [706193]: Đoạn trích đã bàn luận về đối tượng ở các phương diện nào?
Đoạn trích đã bàn luận về đối tượng ở các phương diện:
- Điều kiện sống, chiến đấu gian khổ (Chi tiết người chiến binh ... cũng xanh màu lá...).
- Vẻ đẹp của chiến binh Tây Tiến vừa khoẻ khoắn vừa lãng mạn (Ngoại hình tiều tụy, ... những “dáng kiều thơm”.)
Câu 3 [706194]: Người lính vệ quốc thuở ấy cắt tóc ngắn ba phân (gọi là “húi cua”) để đảm bảo vệ sinh. Nhưng rồi thời tiết, khí hậu nơi rừng thiêng nước độc và nhất là bệnh sốt rét ác tính đã cướp đi mái tóc tuổi xanh và vẻ đẹp ngoại hình của người lính Tây Tiến.
Trong đoạn văn trên, người viết vận dụng tri thức nào để phân tích, đánh giá văn bản? Điều đó có ý nghĩa gì?
Người lính vệ quốc thuở ấy cắt tóc ngắn ba phân (gọi là “húi cua”) để đảm bảo vệ sinh. Nhưng rồi thời tiết, khí hậu nơi rừng thiêng nước độc và nhất là bệnh sốt rét ác tính đã cướp đi mái tóc tuổi xanh và vẻ đẹp ngoại hình của người lính Tây Tiến.
Trong đoạn văn trên, người viết vận dụng tri thức thực tế, có thật trong thực tiễn đời sống của binh đoàn Tây Tiến để phân tích, đánh giá văn bản. Điều này góp phần tô đậm tính chất chân thực, giá trị hiện thực của hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ nói riêng và trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng; phản ánh đúng đời sống gian khổ, thiếu thốn của người lính trong kháng chiến chống Pháp.
Câu 4 [706195]: Cái đáng quý trong thơ của Quang Dũng là đã tạo nên dáng vẻ riêng của người lính Thủ đô, rất khác với những người lính gốc nông dân trong thơ của Chính Hữu (“Đồng chí”), hay Hồng Nguyên (“Nhớ”).
Nêu tác dụng của thao tác lập luận so sánh được sử dụng trong câu văn trên.
Cái đáng quý trong thơ của Quang Dũng là đã tạo nên dáng vẻ riêng của người lính Thủ đô, rất khác với những người lính gốc nông dân trong thơ của Chính Hữu (“Đồng chí”), hay Hồng Nguyên (“Nhớ”).
Tác dụng của thao tác lập luận so sánh được sử dụng trong câu văn trên:
- Tô đậm ấn tượng về sự khác biệt trong hình tượng người lính ở Tây Tiến (Quang Dũng) so với hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên).
- Khẳng định tài năng, sự sáng tạo của Quang Dũng so với các nhà thơ viết cùng đề tài đương thời.
Câu 5 [706196]: Nhận xét các từ ngữ được người viết sử dụng để phân tích, đánh giá hình tượng chiến binh Tây Tiến trong đoạn trích.
- Trong đoạn trích, người viết đã sử dụng một loạt từ ngữ để phân tích, đánh giá hình tượng chiến binh Tây Tiến trong đoạn trích: anh hùng - nghệ sĩ, can trường mà đa tình, kiểu con người dấn thân trận mạc mà cốt cách vẫn hào hoa; dáng vẻ oai hùng; oai phong lẫm liệt; kiêu hùng, lòng kiên định, ý chí sắt đá; vừa khỏe khoắn vừa lãng mạn; cứng rắn; hào hoa phong nhã; nhiều mộng mơ;...
- Các từ ngữ này đã tái hiện thật đúng và trúng thần thái, vẻ đẹp của lính Tây Tiến - những chàng lính trẻ phần đông xuất thân là học sinh, sinh viên, trí thức Hà Thành. Họ đã mang vào cuộc chiến này vẻ trẻ trung, tinh nghịch và tâm hồn lãng mạn, hào hoa, đa tình của những chàng trai Hà Nội.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706197]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật “Em” trong bài thơ sau:

LÁ DIÊU BÔNG
(Hoàng Cầm)

VÁY ĐÌNH BẢNG buông trùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm...
Đồng chiều
Cuống giạ

Chị bảo: đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
đâu phải Lá Diêu Bông

Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vẫn bên sông

Ngày cưới chị, Em tìm thấy Lá
Chị cười
se chỉ ấm trôn kim

Chị ba con Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn

Từ thuở ấy Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!... ới Diêu Bông!...
(Theo Sông Hương Thơ (1983 - 2003) tuyển chọn, NXB Văn hoá Thông tin, 2003)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận hình tượng nhân vật “Em” trong bài thơ “Lá Diêu Bông” (Hoàng Cầm) có thể được triển khai theo hướng:
- Hoàng Cầm là một trong những nghệ sĩ tài hoa của nền văn chương nghệ thuật Việt Nam. Ở lĩnh vực thơ, ông có nhiều thi phẩm đặc sắc, gieo trong người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm, như Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông,...
- Lá Diêu Bông là một trong những bài thơ tình yêu buồn nhưng thật đẹp. Vẻ đẹp của tình yêu trong thi phẩm không nằm ở một kết thúc có hậu mà ở lại lắng ở sự dở dang. Nhân vật trữ tình của bài thơ là “Em”, một cậu trai từ thuở mới lớn, biết rung động đã dành trọn tình yêu trong trẻo đầu tiên cho “Chị”:
+ “Em” xuất hiện cùng “Chị” trong một buổi chiều trên cánh đồng quê chỉ còn trơ gốc rạ. Và chính tại nơi đó, chiều đó, sau “đề bài” đặc biệt “Chị” ra (Chị bảo: đứa nào tìm được Lá Diêu Bông/ từ nay ta gọi là chồng), “Em” đã mải miết đi tìm lời giải.
+ Hình ảnh “Em” từ sau buổi chiều ấy liên tục gắn liền với các mốc thời gian gần - xa, từ lúc hãy còn chứa chan hi vọng (Hai ngày, Mùa đông sau) cho đến khi hi vọng chẳng thành (Ngày cưới chị - Chị ba con) rồi đến tít tắp cuộc đời (Từ thuở ấy). Đi liền với các từ ngữ chỉ thời gian này luôn là điệp khúc lấp lánh hi vọng Em tìm thấy Lá, bất chấp chị chau mày, lắc đầu, cười. Rồi những tưởng sau cùng, sau khoảnh khắc xoè tay phủ mặt/ Chị không nhìn, “Em” sẽ buông rơi chiếc lá, sẽ kết thúc mối tình vô vọng ở đó. Nhưng không, từ thuở ấy, tình yêu mới xanh ngời miên viễn, Em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể, giữ trọn trong tim tình yêu mãnh liệt, thuỷ chung dành cho “Chị”.
-> Hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh một cậu bé - chàng trai - người đàn ông si tình, thất tình nhưng không đau khổ, vô vọng nhưng không hờn trách số phận. Tình yêu ấy, chàng trai ấy thật đáng yêu, đáng mến, thật trong trẻo, thật thơ. Màu sắc tự sự trong bài thơ trữ tình đã dệt nên câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt đẹp của chàng trai Kinh Bắc để bất cứ ai soi mình vào đó cũng thấy tình yêu thật thánh thiện, tuyệt vời.
<*> Tham khảo bài viết:
TÁC GIẢ “LÁ DIÊU BÔNG” VỚI CHUYỆN TÌNH CÕI MỘNG
Năm 2020 này, tròn một thập niên nhà thơ Hoàng Cầm qua đời. Nhắc đến ông, người ta không chỉ nhớ bài thơ “Bên kia sông Đuống” bất hủ, mà còn nhớ bài thơ “Lá diêu bông” đầy mê hoặc.
Nhà thơ Hoàng Cầm, tên thật Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22/2/1922 tại thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang trong một gia đình nhà Nho nghèo sống bằng nghề làm thuốc Đông y.
Tên khai sinh Tằng Việt được ghép từ hai địa danh Phúc Tằng và Việt Yên, còn bút danh Hoàng Cầm do ông tự chọn theo một vị thuốc quý mà ông quen thuộc từ nhỏ.
Sau khi đỗ Tú tài, Hoàng Cầm tham gia Vệ quốc đoàn, và từng làm Trưởng đoàn Văn công của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Hoàng Cầm cũng là tác giả của vở kịch thơ “Kiều Loan” rất nổi tiếng.
Cuộc đời 88 năm của nhà thơ Hoàng Cầm sống trong cõi mộng nhiều hơn cõi thực. Chính ông thú nhận từ năm 8 tuổi, ông đã biết yêu. Sự rung động khó tin và khó hiểu ấy, được Hoàng Cầm đưa vào thi ca.
Trong bài “Cây tam cúc”, ông viết: “Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm/ Em đừng lớn nữa Chị đừng đi/ Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa/ Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì”. Còn trong bài “Vườn ổi”, ông viết: “Em mười hai tuổi tìm theo chị/ Qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa/ Đi ngày tháng lụi tìm không thấy/ Giải yếm lòng trai mải phất cờ”.
Người “chị” khiến Hoàng Cầm xao xuyến tên là Vinh. Trong hồi kí của mình, nhà thơ Hoàng Cầm kể: “Tôi say mê chị Vinh đến mức thờ thẫn, không ngó ngàng gì đến bài vở, học hành. Ngay từ phút đầu, mẹ tôi đã hiểu, hiểu rằng thằng con trai đầu lòng đã phải lòng.
Chị Vinh hơn tôi 8 tuổi, năm ấy 16 tuổi, còn tôi lên 8. Tôi lẽo đẽo theo chị, suốt ngày đứng ngó sang bên kia đường số 1, nơi đó có “ thiên thần của tôi” đang ngồi bán chè tươi, bánh đa bánh đúc. Bố của chị vốn là một ông Tú, vì thế chị rất giỏi chữ Nho, còn tôi chỉ biết chút ít tiếng Pháp. Đặc biệt, chị hát quan họ rất hay. Có lẽ khi mẹ tôi 17 tuổi cũng hát hay như thế. Còn đẹp thì, nếu chị ấy đẹp 10 phần, mẹ tôi may ra được 6 - 7 phần. Tôi cứ thế mê man cho đến khi 12 tuổi.
Cuối năm tôi 12 tuổi đó, chị đi lấy chồng. Trước đó, tôi nào hay biết, cứ theo đuổi như thường. Chị ấy đi đâu, ra bến sông hay ra chợ, lên ga... tôi cũng bám theo, tất nhiên là không nói gì cả, có gọi cũng gọi bằng chị thôi. Trước tiên, đó là tiếng chị bình thường, về sau thành tiếng chị của thơ”.
[...]
Thế nhưng, với nhà thơ Hoàng Cầm cũng như với đông đảo người yêu thơ ông, thì mối tình ám ảnh nhất vẫn là chuyện “Lá diêu bông”.
Một thứ lá của thi ca, của mộng mị được bắt đầu từ những ngày Hoàng Cầm bám theo chị Vinh ra đồng: “Chị ấy tìm bới thứ gì đó trong những búi cây dại, những búi cỏ to ở những bờ ruộng, những gò nấm mấp mô trên đồng. Khi lên tìm ở một cái gò, chị ấy quay lại, đứng thẳng người lên, mà không phải là nhìn tôi, hai mắt ngó lơ đểnh về phía chân trời như đang ngắm một dải mây nào xa lắm.
Chị ấy mắng tôi như thế này, gọi là mắng nhưng hình như là chị ấy tự nói với chính mình: “Ơ, sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng thế nhỉ?”. Đúng ngần ấy chữ, không sai một từ đâu!
Máu trong người tôi bỗng chảy rất đều, rất mạnh, rất nhịp nhàng từ chân lên tới đầu, rần rật, rần rật. Người tôi ấm lên, nghe như có tiếng reo trong máu.
Tôi im lặng. Chị ấy lại tiếp tục đi tìm. Đến một cái gò khác, sau khi đã đi qua những mảnh ruộng chỉ còn trơ gốc rạ, tôi hỏi “Chị tìm gì đấy?”. Lần nầy, chị ấy đứng thẳng, nhìn thẳng vào mắt tôi mà nói rằng: “Chị tìm cái lá... ấy đấy!”.
Tôi nghe chị nói rõ ràng tên lá gồm hai tiếng, sau đó chỉ ít lâu là tôi quên, nhưng tôi đoán cái lá đó là có thật nhưng cực kì khó tìm. Phải có thật thì chị ấy mới tìm khổ sở thế chứ? Có thể cái lá đó có thể chữa một bệnh hiểm nghèo gì đó, hoặc có tác dụng nào đó tăng thêm nhan sắc chăng? Tôi chỉ nghĩ được đến thế thôi!
Tên lá thì tôi quên rất nhanh, nhưng câu nói của chị thì tôi nhớ rành rọt vì chủ từ nó rất khác nhau: “Chị đi tìm lá... ấy đấy. Đứa nào tìm được lá ấy, ta gọi là chồng!”. Không phải tao như nhiều người vẫn nhớ và đọc mà là “ta”. Câu nói ấy của chị làm mặt tôi nóng bừng nhưng chân thì lạnh, lạnh vô cùng”.
Đó là khi Hoàng Cầm còn nhỏ. Mãi đến năm 1959, thì hình ảnh “Lá diêu bông” mới xuất hiện trở lại và thành tác phẩm, như lời Hoàng Cầm chia sẻ: “Một đêm, tôi ở Lý Quốc Sư - Hà Nội, có lẽ quá nửa khuya rồi, tôi trằn trọc nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh...
Trong cái đêm bồn chồn ấy, tôi chợt nghe tiếng văng vẳng bên tai như có ai nói, giọng phụ nữ, không phải giọng chị Vinh, không phải xa xôi lắm như tự kiếp nào chứ không phải của kiếp này.
Vậy mà rất trong, rõ ràng, có lên xuống trầm bổng hẳn hoi, không phải như ta nói chuyện thường, cũng không phải giọng mẹ tôi, không phải bất cứ người nào, thánh thót êm ái lắm, giọng đọc chính tả. Rất đều đặn, nhịp nhàng từ đầu đến cuối.
Tôi quơ giấy bút chép lại cái giọng đọc xa xôi kia. Cho đến câu cuối cùng, người tôi nhẹ nhàng như trút được một gánh nặng, rất thảnh thơi.
Sáng hôm sau, thức dậy tôi lại bàn bật đèn (vì trời đã sáng nhưng trong nhà còn tối) ngồi tách những câu thơ ra, vì ban đêm, viết dưới ngọn đèn ngủ 6 oát mờ mờ, dòng nọ đè lên dòng kia, có khi hai ba dòng đè lên nhau. Mất cả tiếng đồng hồ mới tách chúng ra xong.
Bài thơ “Lá diêu bông” đã ra đời như thế”.
(Theo Tâm Huyền, nongnghiep.vn)
Câu 7 [706198]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về những thứ “rỗng” trong cuộc sống.
Bài văn trình bày suy nghĩ về những thứ “rỗng” trong cuộc sống có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn: “Rỗng” là không có phần lõi, phần ruột ở bên trong mà chỉ có lớp vỏ ngoài; là không chứa đựng gì ở bên trong.
- Bàn về những thứ “rỗng”:
+ Trong thế giới vật chất:
• Có muôn vàn sự vật tồn tại với hình thái rỗng bên trong và giá trị của hầu hết những sự vật này được xác lập từ chính trạng thái rỗng.
• Có những khoảng rỗng không dễ bù đắp.
+ Trong đời sống con người:
• Có những khoảng rỗng cần thiết phải tồn tại, những khoảng rỗng đáng yêu.
• Có khoảng rỗng chỉ mang đến điều buồn phiền: sự trống rỗng của đạo đức, nhân cách; những khoảng rỗng của trí tuệ; những khoảng rỗng trong tâm hồn;...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

- Nếu mang trong mình những khoảng rỗng, phải ngay lập tức hãy điền đầy, khoả lấp chúng.
- Thế giới có những khoảng rỗng chứa đựng nhiều điều kì diệu. Hãy khám phá và tiếp tục chiêm nghiệm về những khoảng rỗng ấy. Đó là cách để chúng ta điền đầy những khoảng rỗng trong chính mình.
<*> Tham khảo bài viết:
Bạn có biết trống rỗng là một trong những trạng thái làm nên sự tồn tại của rất nhiều sự vật trong thế giới này? Có những khoảng rỗng thật đáng yêu nhưng cũng có những khoảng rỗng cực kì đáng ghét. Đã khi nào bạn suy nghĩ về nó?
“Rỗng” là trạng thái tồn tại không có phần lõi hoặc không chứa đựng gì của sự vật. Trong thế giới vật chất, có muôn vàn sự vật tồn tại với hình thái rỗng bên trong như chiếc cốc, chiếc túi, cái bao, cái hộp, quả bóng bay, quả bóng đá, khinh khí cầu... Hiển nhiên, giá trị của hầu hết những sự vật này lại được xác lập từ chính trạng thái rỗng đó. Chiếc cốc rỗng để chứa nước, chiếc túi rỗng để đựng đồ vật, quả bóng tròn rỗng bên trong phải chứa hơi thì mới có thể lăn trên sân cỏ, khinh khí cầu phải rỗng thì mới có thể bay lên không trung, cái trống phải rỗng bên trong thì khi đánh mới kêu to. Nhưng nói như vậy không có nghĩa sự vật nào được làm rỗng cũng tạo nên giá trị. Các công trình xây dựng sẽ ra sao nếu bị “rút ruột” vật liệu xây dựng? Những cột mốc bên đường sẽ ra sao nếu bị làm rỗng bằng cách thay lõi sắt bằng lõi tre? Lòng sông sẽ ra sao nếu bị nạo vét để khai thác cát một cách không thương tiếc? Những khoảng rỗng ấy có dễ bù đắp?
Trạng thái rỗng không chỉ tồn tại trong thế giới các sự vật vô tri mà còn hiện hữu trong đời sống con người. Và cũng giống hệt thế giới sự vật, trong thế giới con người, có những khoảng rỗng cần thiết phải tồn tại như khoảng rỗng trong tâm hồn người mẹ những buổi đứa con học vắng nhà, khoảng rỗng trong tâm hồn người thầy khi đến lớp thấy vắng thiếu học trò (Mỗi khoảng trống trên bàn, có em vắng mặt/ Là mỗi khoảng trống ở trong tôi), khoảng rỗng trong trái tim một cô bé khi cậu bạn thân vừa chuyển lớp... Những khoảng rỗng ấy mới đáng yêu làm sao! Chúng không khắc sâu hơn nỗi cách xa mà trái lại còn xích con người lại gần bên nhau hơn, xoá nhoà đi khoảng cách không gian, thời gian. Đó là những khoảng rỗng - như Vũ Hoàng Thuật từng viết:
... những khoảng rỗng
không tên gọi
chẳng duyên cớ
những khoảng rỗng

bờ
ngày ngày
di dời trên đất
khoảng rỗng
siêu
hình

những khoảng rỗng giấu mình
những khoảng trống xây tổ
những khoảng trống liêu trai

Có những khoảng rỗng đáng yêu, đáng nhớ như thế nhưng cũng có những khoảng rỗng chỉ mang đến điều buồn phiền.
Có biết bao người bề ngoài vẫn bao bọc cho mình bằng lớp vỏ đạo đức, nhân cách đầy đặn, phúc hậu nhưng thực chất phía trong lần vỏ căng mỏng đó lại chẳng hề có lấy một chút yêu thương. Trước cửa phòng khám trang hoàng lộng lẫy tấm biển trắng trên đó có những dòng chữ xanh Lương y như từ mẫu nhưng trách nhiệm của một số bác sĩ, y tá chỉ được thể hiện khi những người bệnh khốn khổ kẹp trong cuốn sổ khám bệnh chiếc phong bì... Bao con trẻ đến lớp vẫn hát Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo, khi đến trường cô giáo như mẹ hiền, nhưng nhà trẻ chúng đến đâu có mẹ hiền mà chỉ có cô nuôi dạy trẻ tàn nhẫn...
Không chỉ sự trống rỗng của đạo đức, nhân cách mới đáng lên án, những khoảng rỗng của trí tuệ cũng thật đáng chế nhạo. Bởi lẽ trí tuệ đưa con người tiến gần sự văn minh còn những khoảng rỗng của nó chỉ đẩy xa con người về miền lạc hậu, u tối. Ai dám khẳng định xã hội chúng ta ngày nay không có những khoảng rỗng về trí tuệ? Thực trạng học sinh ngồi nhầm lớp ở một số trường tiểu học, thực trạng học tập theo kiểu mua danh của sinh viên các lớp tại chức ở một số trường đại học lẽ nào không phản ánh những khoảng rỗng của trí tuệ con người?
Đáng sợ hơn cả trong các kiểu hình “rỗng” ấy là rỗng tâm hồn. Không biết xúc động, yêu thương, không thể đau đớn, phẫn nộ, không thể vui buồn, sướng khổ... chính là biểu hiện của trạng thái này. Người mang tâm hồn trống rỗng là người khốn khổ nhất cuộc đời bởi lẽ chẳng khi nào họ được sống như một con người thực thụ. Họ không biết cảm nhận cái đẹp, không biết căm ghét điều xấu xa, tàn ác. Cuộc sống của họ thực chất chẳng khác cuộc sống của những loài thực vật. Sớm muộn, những tâm hồn rỗng sẽ giết chết những hình hài mang nó.
Nếu trót mang trong mình những khoảng rỗng đáng ghét đó, điều bạn phải làm ngay lập tức là hãy điền đầy, khoả lấp chúng bằng chính những gì bạn thiếu: điền đầy đạo đức bằng lòng yêu thương vị tha, bằng sự thanh cao; điền đầy trí tuệ bằng cách học và lĩnh hội thật nhiều tri thức nhân loại; điền đầy tâm hồn bằng cách ươm mầm những hạt giống xúc cảm. Những khoảng rỗng sẽ biến mất và bạn sẽ trở thành người giàu có vô cùng.
Thế giới này còn biết bao khoảng rỗng, có những khoảng rỗng cần làm đầy nhưng cũng có những khoảng rỗng chứa đựng nhiều điều kì diệu. Hãy khám phá chúng và tiếp tục chiêm nghiệm về những khoảng rỗng ấy. Bằng cách này, chúng ta có thể lấp đầy dần một số khoảng rỗng trong chính bản thân mình.
(Cô Dung Vũ)