I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Nói Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu (tình yêu nam nữ) tất nhiên là đúng, nhưng có phần quá hạn hẹp, không khái quát được đầy đủ hồn thơ rộng mở của Xuân Diệu. Khái niệm giao cảm với đời ôm trùm toàn vẹn hơn:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ông muốn ôm lấy tất cả cuộc sống này, riết lấy tất cả trong đôi tay hăm hở của mình. Và ông tha thiết mong được mọi người đến với mình - “Đây là quán tha hồ muôn khách đến” (“Cảm xúc”) - ông mở rộng tâm hồn, chào mời tất cả và muốn lòng mình như phấn thông trên bãi biển bay vàng cả trời đất mênh mông, đem tình yêu đi khắp thế gian.
Là nhà thơ của niềm giao cảm với đời, tất nhiên Xuân Diệu cũng là nhà thơ của tình yêu. Tình yêu là tình cảm say mê nhất trong thơ Xuân Diệu, ông khao khát muốn đuổi kịp và vượt cả Rông-xa về điểm này.
Là nhà thơ của niềm giao cảm với đời nên Xuân Diệu cũng tất yếu trở thành nhà thơ cách mạng, nhà thơ của chủ nghĩa xã hội. Hồn thơ Xuân Diệu bắt vào lửa cách mạng một cách dễ dàng, mau lẹ hơn bất cứ nhà Thơ mới nào khác. Vì cách mạng chẳng phải là niềm giao cảm vĩ đại của hàng triệu người đó sao? Niềm giao cảm trong tình yêu lớn của cả một dân tộc, của nhiều dân tộc đối với một lí tưởng xã hội tốt đẹp.
Niềm khát khao giao cảm với đời, ở Xuân Diệu, dĩ nhiên thể hiện rất rõ trong thơ ông. Ông cần đến thơ để thả hồn mình vào thế giới, tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Nhưng thơ chưa đủ thoả mãn nhu cầu ấy. Nó lớn hơn, rộng hơn thơ ông nên tràn ra cả ngoài thơ, thành văn xuôi, bút kí, tuỳ bút, truyện ngắn, thành cả phê bình, nghiên cứu văn học,...
Nó còn tràn ra cả ngoài sự nghiệp viết văn, làm sách của ông nữa, thành những cuộc nói chuyện trực tiếp với công chúng: nói ở hội nghị, nói trên đài phát thanh, nói trong Nam ngoài Bắc, trong nước, ngoài nước, nói với đủ mọi hạng người,... Có thể nói, trên đời này có bao nhiêu cách để tiếp xúc với đời, để tìm sự giao cảm với đời, Xuân Diệu đều không bỏ qua và đều khai thác triệt để. Con người ấy đã đi nói chuyện tới mấy trăm lần, đã viết hàng mấy chục quyển sách, đủ mọi thể loại, đủ mọi đề tài, cả một đời lao động miệt mài, cật lực cho đến hơi thở cuối cùng. Vì động cơ nào vậy? Vì đây là một trái tim nóng bỏng, trái tim của một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm đầy tính nhân bản kia, để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối với cuộc sống và kêu gọi tình yêu của cuộc sống đối với mình. Hãy nghe nhà thơ van vỉ cuộc đời, van vỉ chúng ta:
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ,
Một giây cũng cam, một chút cũng đành.
(Lời thơ vào tập “Gửi hương”)
Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi,
Dù chỉ là trong một phút mà thôi.
(Mời yêu)”
(Trích Xuân Diệu - Thi pháp và phong cách - Nguyễn Đăng Mạnh, theo Văn bản đọc hiểu Ngữ văn 11, NXB Đại học Huế, 2023)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706213]: Luận điểm được trình bày trong đoạn trích là gì?
Luận điểm được trình bày trong đoạn trích: Xuân Diệu là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời.
Câu 2 [706214]: Xác định hệ thống lí lẽ, dẫn chứng được triển khai trong đoạn trích.
Hệ thống lí lẽ, dẫn chứng được triển khai trong đoạn trích:
- Lí lẽ 1: Ông muốn ôm lấy tất cả sự sống này, tha thiết mong được mọi người đến với mình
Dẫn chứng 1: “Đây là quán tha hồ muôn khách đến” (“Cảm xúc”); muốn lòng mình như phấn thông trên bãi biển bay vàng cả trời đất mênh mông, đem tình yêu đi khắp thế gian (Phấn thông vàng)
- Lí lẽ 2: Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu
- Lí lẽ 3: Xuân Diệu là nhà thơ cách mạng, nhà thơ của chủ nghĩa xã hội; Vì cách mạng chẳng phải là niềm giao cảm vĩ đại của hàng triệu người đó sao?
- Lí lẽ 4: (niềm khát khao giao cảm với đời) lớn hơn, rộng hơn thơ ông nên tràn ra cả ngoài thơ, thành văn xuôi, bút kí, tuỳ bút, truyện ngắn, thành cả phê bình, nghiên cứu văn học,...
- Lí lẽ 5: (niềm khát khao giao cảm với đời) thành những cuộc nói chuyện trực tiếp với công chúng
Dẫn chứng 5: nói ở hội nghị, nói trên đài phát thanh, nói trong Nam ngoài Bắc, trong nước, ngoài nước, nói với đủ mọi hạng người,...
Câu 3 [706215]: Nêu tác dụng của thao tác lập luận bác bỏ được sử dụng trong đoạn văn:
Nói Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu (tình yêu nam nữ) tất nhiên là đúng, nhưng có phần quá hạn hẹp, không khái quát được đầy đủ hồn thơ rộng mở của Xuân Diệu...
Nói Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu (tình yêu nam nữ) tất nhiên là đúng, nhưng có phần quá hạn hẹp, không khái quát được đầy đủ hồn thơ rộng mở của Xuân Diệu...
Tác dụng của thao tác lập luận bác bỏ được sử dụng trong đoạn văn:
- Góp phần tạo nên mạch lập luận chặt chẽ cho văn bản (tiếp nối ý kiến này sẽ là một hệ thống lí lẽ, bằng chứng để chứng minh cho tính chất đúng đắn của nội dung được bác bỏ).
- Thể hiện một cái nhìn thấu đáo, sắc sảo về thơ Xuân Diệu.
- Tăng tính hấp dẫn cho đoạn văn (khơi gợi sự tò mò, dõi theo quan điểm của người viết).
Câu 4 [706216]: Vì đây là một trái tim nóng bỏng, trái tim của một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm đầy tính nhân bản kia, để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối với cuộc sống và kêu gọi tình yêu của cuộc sống đối với mình.
Đoạn văn bộc lộ tình cảm, thái độ nào của người viết đối với đối tượng được bàn luận?
Vì đây là một trái tim nóng bỏng, trái tim của một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm đầy tính nhân bản kia, để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối với cuộc sống và kêu gọi tình yêu của cuộc sống đối với mình.
Đoạn văn bộc lộ sự thấu hiểu, đồng điệu, đồng cảm đầy trân trọng, yêu mến của người viết đối với đối tượng niềm khát khao giao cảm với đời trong con người và thơ ca Xuân Diệu.
Câu 5 [706217]: Nhận xét sự kết hợp giữa yếu tố nghị luận và yếu tố biểu cảm trong đoạn trích.
- Sự kết hợp giữa yếu tố nghị luận và yếu tố biểu cảm trong đoạn trích:
+ Yếu tố nghị luận: thể hiện qua hệ thống lập luận gồm các lí lẽ, dẫn chứng làm sáng tỏ cho luận điểm được triển khai.
+ Yếu tố biểu cảm: thể hiện qua
• Các ý kiến nhận xét, đánh giá của người viết (chẳng hạn: Tình yêu là tình cảm say mê nhất trong thơ Xuân Diệu, ông khao khát muốn đuổi kịp và vượt cả Rông-xa về điểm này.; Vì đây là một trái tim nóng bỏng, trái tim của một con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm đầy tính nhân bản kia, để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối với cuộc sống và kêu gọi tình yêu của cuộc sống đối với mình.;...);
• Hình thức câu nghi vấn (Vì cách mạng chẳng phải là niềm giao cảm vĩ đại của hàng triệu người đó sao?; Vì động cơ nào vậy?)
• Các từ ngữ giàu sức gợi: bắt vào lửa cách mạng, niềm giao cảm vĩ đại, trái tim nóng bỏng, van vỉ,...
+ Nghị luận và biểu cảm không tách rời mà quyện hoà với nhau, xuyên suốt đoạn trích.
- Tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố nghị luận và yếu tố biểu cảm:
+ Nghị luận thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá sắc sảo của người viết về vấn đề bàn luận; mang lại vẻ đẹp trí tuệ cho đoạn trích.
+ Biểu cảm giúp đoạn trích không khô khan, trừu tượng mà ngược lại, dễ đi vào lòng người, dễ lan thấm vào tâm hồn người đọc, khơi gợi xúc cảm đồng điệu trong tâm hồn người đọc.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706218]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) về ý nghĩa của tình yêu trong cuộc sống con người.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) ý nghĩa của tình yêu trong cuộc sống con người có thể được triển khai theo hướng:
- Tình yêu: (nghĩa hẹp) tình cảm lứa đôi của những người yêu nhau; (nghĩa rộng) tình cảm yêu thương giữa con người với con người, giữa con người với vạn vật trong thế giới.
- Ý nghĩa của tình yêu trong cuộc sống con người:
+ Với cá nhân:
• Tình yêu giúp kết nối, gắn kết người với người, đưa những người xa lạ đến gần nhau, gắn bó với nhau, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau; tình yêu là tình cảm thiêng liêng góp phần mang đến ý nghĩa đích thực cho sự tồn tại của con người trong cuộc đời này (Cuộc sống sẽ ra sao nếu không có tình yêu? Liệu con người ta còn được nếm trải bao vui buồn, yêu ghét, khao khát, giận hờn? Liệu con người còn dám hi sinh vì nhau?...).
• Tình yêu có thể xoa dịu mọi nỗi đau, hàn gắn những tan vỡ; động lực nâng đỡ con người vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống (Một bàn tay, một bờ vai, một nụ cười, một cái ôm,... đúng lúc ta bất trắc sẽ kéo ta ra khỏi nỗi cô đơn, sẽ nhấc ta lên trên khỏi nỗi buồn đau, cảm giác thất bại,...).
+ Với cộng đồng: Tình yêu kiến tạo nên một cộng đồng gắn bó, gắn kết, văn minh, cùng nhau phát triển (Một xã hội giàu tình yêu thương sẽ luôn có những con người biết tôn trọng, trân trọng ứng xử với nhau một cách văn minh, sẽ nâng đỡ để cùng nhau phát triển...).
(Liên hệ lời bài hát Hãy yêu nhau đi - Trịnh Công Sơn:
Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau cho
gạch đá có tin vui
Hãy kêu tên nhau
trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người
)
Câu 7 [706219]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về tình bạn đích thực.
Bài văn trình bày suy nghĩ về tình bạn đích thực có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “tình bạn”: tình cảm kết nối giữa người với người dựa trên sự gần gũi, tương đồng về quan điểm, lí tưởng, sở thích,... Đây là một tình cảm thiêng liêng, cao quý, cần có trong đời sống tinh thần của mỗi con người.
- Bình luận về “tình bạn đích thực”:
+ Thế nào là “tình bạn đích thực”?
• Là tình bạn có sự thấu hiểu, đồng điệu, đồng cảm sâu sắc về tình cảm, tư tưởng giữa những người bạn (như tình bạn giữa Lý Bạch - Mạnh Hạo Nhiên, Nguyễn Khuyến và Dương Khuê,...)
• Giống như bất kì tình cảm thiêng liêng nào tồn tại trong nhân loại, tình bạn đích thực luôn đòi hỏi một thứ tình cảm “nguyên chất”, trong trẻo, tuyệt đối không vị kỉ, không vụ lợi giữa những người bạn. Những người bạn thực sự sẽ luôn sẵn sàng, vô tư hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong mọi tình huống của cuộc sống (Friedrich Engels đã luôn đồng hành, ủng hộ sự nghiệp chính trị của Kark Marx; Ernest Hemingway và F. Scott Fitzgerald - hai trong số những nhà văn nổi tiếng nhất nước Mỹ - là những người bạn thân và thường gửi nhau đọc trước bản thảo những tác phẩm mới.)
• Tình bạn đích thực không được đo bằng các tiêu chí giới tính (có những tình bạn khác giới vô cùng thân thiết, như tình bạn của James Baldwin và Toni Morrison: Morrison gặp Baldwin khi bà đang làm việc tại Random House. Tình bạn của họ nhanh chóng nảy nở. Morrison đã suy sụp sau cái chết của Baldwin vào năm 1987. Bà đã dành những lời vinh danh cho ông tại đám tang và viết bài tưởng nhớ ông trên tờ New York Times.); tuổi tác (có những tình bạn vong niên, như tình bạn của Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên), địa vị sang hèn, sự giàu nghèo (tình bạn giữa Lưu Bình - Dương Lễ trong vở chèo cổ Lưu Bình - Dương Lễ),...
• ...
+ Tình bạn đích thực mang lại những giá trị nào?
• Đối với cá nhân mỗi người bạn: Tình bạn đích thực mang đến điểm tựa tinh thần cho mỗi người, giúp mỗi chúng ta thêm tin yêu cuộc sống, là một phần động lực để mỗi người không ngừng phấn đấu trong hành trình sống của mình,...
• Đối với xã hội: Tình bạn đích thực góp phần cố kết xã hội, tạo nên một xã hội tốt đẹp.
+ Để có được tình bạn đích thực trong cuộc đời, mỗi người cần làm gì?
• Nhận thức đúng về tình bạn đích thực, về giá trị của tình bạn đích thực, có ý thức giữ gìn tình bạn.
• Biết nuôi dưỡng tình bạn bằng việc dẹp bỏ cái “tôi” cá nhân, tôn trọng bạn bè, sẵn sàng giúp đỡ, thậm chí hi sinh vì bạn,...
+ Phê phán những kẻ lợi dụng tình bạn, chà đạp lên tình bạn...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

- Nhận thức: Người sống ở đời không thể thiếu bạn nhưng cũng không nên dễ dãi trong việc kết bạn; tình bạn đích thực là tình cảm quý giá luôn cần được trân trọng, giữ gìn
- Hành động: Khi đã có được tình bạn đích thực, cần biết trân trọng, giữ gìn,...
<*> Tham khảo bài viết:
NGƯỜI SỐNG Ở ĐỜI KHÔNG THỂ THIẾU BẠN
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện cảm động về tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kì, Trần Phồn – Từ Trĩ lại là điển tích trong văn học Trung Quốc. Và cũng không ngẫu nhiên khi ca dao Việt Nam lại có cách so sánh độc đáo về sự gặp gỡ, tri âm:
- Ra đi vừa gặp bạn quen,
Cũng bằng dội nước hồ sen trước chùa.
- Ra đi vừa gặp bạn hiền,
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời.
Có lẽ nào có được một người bạn lại quí giá nhường ấy? Có lẽ nào tình bạn lại quan trọng như thế trong cuộc sống con người? Và có chính xác hoàn toàn khi ai đó khẳng định: Người sống ở đời không thể thiếu bạn?
Có thể hiểu, bạn là người đồng cảm, đồng điệu với ta, thấu hiểu những tâm tư, suy nghĩ trong ta, có thể chia sẻ với ta nhiều khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống. Mọi người ai cũng cần có bạn, tuổi nào cũng cần có bạn. Từ những đứa trẻ đang bi bô đến cậu học sinh ngồi trên ghế nhà trường, đến những người cao tuổi, ai cũng cần bạn. Bởi lẽ ai cũng có nhu cầu trò chuyện tâm giao, nhu cầu được thấu hiểu, cảm thông... Không thể thiếu bạn tức là không thể không có bạn, ai sống trên đời cũng cần bạn. Bản thân mỗi người cũng phải là bạn của mọi người và mỗi người đều cần có quanh mình những người bạn thực sự.
Con người muốn tồn tại, phát triển bình thường, cần hoà nhập với môi trường sống, giao lưu với những người xung quanh. Những người đó không chỉ là người thân, đối tác... mà còn là bạn bè. Bạn bè là người thường xuyên lắng nghe ta, đối thoại với ta. Người không có bạn sẽ không cảm nhận được ý nghĩa của cuộc sống. Hơn thế nữa, bạn còn là người có thể chia sẻ với ta những điều mà có khi người thân không thể thấu hiểu. Trong nhiều hoàn cảnh khó khăn, chỉ những người bạn mới có thể giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề. Có những kiến thức trên lớp mà thày cô giảng học sinh không thể tiếp thu nhanh bằng cách giải thích của người bạn ngồi bên. Bạn là người mang cho ta số báo Hoa học trò mới ra khi ta nằm bẹp trên giường vì trận sốt tối qua. Bạn là người luôn nở nụ cười khi ta chiến thắng, là người luôn sát bờ vai để ta dựa vào khi nước mắt trực trào. Ai sống cũng cần được quan tâm, chia sẻ và bạn chính là người có thể làm điều đó. Thêm một lí do để mỗi người sống trên đời cần có bạn, đó là vì bạn là tấm gương sáng nhất để ta soi vào đó và hoàn thiện mình. Có bạn, chúng ta có thể suy xét về bản thân để tự điều chỉnh mình.
Có được một người bạn đã khó nhưng giữ gìn để tình bạn mãi bền lâu còn khó hơn rất nhiều. Phải làm gì để quanh ta bạn bè luôn đông vui? Phải làm gì để chinh phục được khó khăn ấy? Trước hết, bản thân mỗi người cần hoà mình vào cộng đồng, tập thể, chủ động kết bạn với mọi người. Sự chân thành, nhiệt tình của bản thân là điều cốt yếu nhen nhóm lên ngọn lửa tình bạn. Hãy nở nụ cười, hãy chìa bàn tay của mình ra trước. Sự thân thiện của bạn sẽ là đầu mốc vững chắc cho chiếc cầu tình bạn được thi công.
Tình bạn luôn cần sự quan tâm, chia sẻ, vậy nên, chúng ta có thể đặt niềm tin vào bạn mình, chủ động giãi bày với bạn về những vướng mắc, tâm tư, tình cảm trong lòng. Những người bạn sẽ cảm nhận được sự cởi mở của ta và chắc chắn, họ không bao giờ thờ ơ, lạnh nhạt. Họ sẽ đưa ra những lời khuyên hữu ích, sẽ giúp ta vượt qua khó khăn. Ngay cả khi không thể giúp ta giải quyết vấn đề, họ cũng sẽ ở bên động viên.
Sự quan tâm của bạn bè luôn là nguồn động viên quí giá đối với mỗi người. Vậy nên, khi nhận được những chia sẻ của bạn bè, chúng ta nên lắng nghe, tiếp thu một cách trân trọng. Những người bạn sẽ cảm nhận được họ có vị trí và quan trọng như thế nào trong ta. Họ sẽ tự tin hơn trong những lời động viên, khuyên nhủ. Và tình bạn chắc chắn sẽ được gắn bó hơn.
Hết lòng gìn giữ tình cảm bạn bè, hết lòng vun đắp cho tình bạn là phương thức tốt nhất để tình bạn trường tồn vĩnh cửu. Sự bao dung, độ lượng trong tình bạn hay thái độ thẳng thắn nhận khuyết điểm của mình cũng sẽ giúp tình bạn bền vững. Ai đã đọc Sự tích chim cuốc, ai đã xem vở chèo Lưu Bình – Dương Lễ... chắc hẳn sẽ xúc động vô cùng trước tình bạn của các nhân vật. Rồi câu chuyện về một cô bé suốt mấy năm đằng đẵng cõng bạn đến trường, câu chuyện về người bạn nhỏ băng mình vào dòng nước xiết cứu bạn... tất cả đều đáng để chúng ta trân trọng, học tập.
Người sống trên đời không thể thiếu bạn, nhưng không phải vì thế mà chúng ta vội vàng trong việc chọn bạn, dễ dãi, xuề xoà quá trong tình bạn.
Con người cần có bạn ở mọi nơi, mọi lúc. Vậy nên đừng ngại ngần kết bạn với mọi người. Hãy luôn ý thức mình có thể làm bạn với tất cả. Sự cởi mở và chân thành sẽ mang đến cho bạn những người bạn tốt.
(Cô Dung Vũ)