I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Nghiệp văn chương của Thuý Toàn “phát” về đường dịch thuật. Ngoài những vốn “tự có” được tích lũy từ những năm ở quê hương Kinh Bắc và những năm đi thoát li, cú hích quan trọng nhất đẩy anh đến với kho tàng văn học thế giới là vốn ngôn ngữ, tri thức và vốn sống của anh trong 12 năm học tập xa Tổ quốc (4 năm ở Trung Quốc và 8 năm ở Liên Xô). Từ vùng văn hóa của một địa phương trên đất Việt, anh được tiếp xúc với những vùng văn hóa mới, lần này, ngoài sự rộng lớn, bao la, còn có yếu tố “lạ”, cho nên có sức hút mạnh đối với anh, nhập vào trong anh, khiến anh không thể lìa xa.
Lòng mê say đến đắm đuối công việc dịch thuật của Thuý Toàn thể hiện ở khắp mọi nơi, mọi chỗ. Trước hết ở tiêu chí chọn sách để dịch. Anh chọn những gì anh thích - một điểm xuất phát từ con tim, từ lòng yêu mến say mê. Nghe theo tiếng gọi của cảm xúc như vậy nên không bao giờ anh dịch theo “đơn đặt hàng”. Có khi, đó chỉ là một bài thơ ngẫu nhiên anh gặp của một tác giả vô danh, ví như bài Sức mạnh của G. Golovatu (một thanh niên Liên Xô bị bại liệt): Người mù không thể nhìn giận dữ/ Người câm không thể thét căm hờn/ Người cụt tay không thể cầm vũ khí/ Người què chân không thể tiến trong hàng/ Nhưng người mù có thể thét căm hờn/ Còn người câm có thể nhìn giận dữ/ Người cụt tay có thể tiến trong hàng/ Người què chân có thể cầm vũ khí! Bài này anh dịch đăng trên báo Văn nghệ, số 80 ra ngày 5/11/1964 và 9 năm sau cũng trên báo Văn nghệ ở mục Sổ tay người yêu thơ, bài thơ được nhắc lại để nêu một tấm gương cho những người sáng tác học tập ở “chủ đề hay” và “sự phát hiện độc đáo”. Chỉ một bài thơ nhỏ, hoàn toàn không nổi tiếng, nhưng được phát hiện đúng, đã có ích cho bao người, giúp ta nhìn ra ngoài để học hỏi thêm.
Cũng có khi những tác phẩm được chọn dịch là thơ của Puskin. Nhưng Thúy Toàn chỉ lựa những bài anh thích, không chọn vì sự nổi tiếng của nhà thơ vĩ đại.
Nỗi niềm say mê nhiều khi “hành” Thuý Toàn đến lạ. Có bài anh đã bắt đầu, nhưng không ưng ý với kết quả dịch của mình, để rồi 20 năm sau mới có dịp “tái hợp”. Đó là trường hợp bài Buổi sáng mùa đông của Puskin. Sự lao tâm khổ tứ, không đành lòng qua loa với một bài thơ trong suốt 20 năm ấy chắc chắn không phải để mong đợi đồng nhuận bút còm cõi hoặc cao hơn thế, một giải thưởng nào đấy, mà chỉ vì một cái gì đó đắm đuối, thiêng liêng của nhu cầu sáng tạo không ngừng. Ngày xưa không tiện phô tô như bây giờ, anh đã từng cặm cụi chép hàng quyển thơ bằng tiếng Nga, trân trọng giữ gìn như vật báu. Nếu ai có dịp đi đón anh ở nước ngoài về chắc hẳn hơn một lần phải khiêng hộ anh những kiện hàng toàn sách là sách. Thời buổi cơ chế thị trường hiện nay, hẳn có nhiều người không hiểu được nỗi đam mê chữ nghĩa của anh. Trong số hàng triệu độc giả từng đọc thơ Nga, truyện cổ dân gian các nước, các sách do anh biên soạn..., đã mấy người thông cảm được với nỗi nhọc nhằn, vất vả trong từng câu chữ của một công việc nhiều lúc thật bạc tình như dịch thuật.”
“Nghiệp văn chương của Thuý Toàn “phát” về đường dịch thuật. Ngoài những vốn “tự có” được tích lũy từ những năm ở quê hương Kinh Bắc và những năm đi thoát li, cú hích quan trọng nhất đẩy anh đến với kho tàng văn học thế giới là vốn ngôn ngữ, tri thức và vốn sống của anh trong 12 năm học tập xa Tổ quốc (4 năm ở Trung Quốc và 8 năm ở Liên Xô). Từ vùng văn hóa của một địa phương trên đất Việt, anh được tiếp xúc với những vùng văn hóa mới, lần này, ngoài sự rộng lớn, bao la, còn có yếu tố “lạ”, cho nên có sức hút mạnh đối với anh, nhập vào trong anh, khiến anh không thể lìa xa.
Lòng mê say đến đắm đuối công việc dịch thuật của Thuý Toàn thể hiện ở khắp mọi nơi, mọi chỗ. Trước hết ở tiêu chí chọn sách để dịch. Anh chọn những gì anh thích - một điểm xuất phát từ con tim, từ lòng yêu mến say mê. Nghe theo tiếng gọi của cảm xúc như vậy nên không bao giờ anh dịch theo “đơn đặt hàng”. Có khi, đó chỉ là một bài thơ ngẫu nhiên anh gặp của một tác giả vô danh, ví như bài Sức mạnh của G. Golovatu (một thanh niên Liên Xô bị bại liệt): Người mù không thể nhìn giận dữ/ Người câm không thể thét căm hờn/ Người cụt tay không thể cầm vũ khí/ Người què chân không thể tiến trong hàng/ Nhưng người mù có thể thét căm hờn/ Còn người câm có thể nhìn giận dữ/ Người cụt tay có thể tiến trong hàng/ Người què chân có thể cầm vũ khí! Bài này anh dịch đăng trên báo Văn nghệ, số 80 ra ngày 5/11/1964 và 9 năm sau cũng trên báo Văn nghệ ở mục Sổ tay người yêu thơ, bài thơ được nhắc lại để nêu một tấm gương cho những người sáng tác học tập ở “chủ đề hay” và “sự phát hiện độc đáo”. Chỉ một bài thơ nhỏ, hoàn toàn không nổi tiếng, nhưng được phát hiện đúng, đã có ích cho bao người, giúp ta nhìn ra ngoài để học hỏi thêm.
Cũng có khi những tác phẩm được chọn dịch là thơ của Puskin. Nhưng Thúy Toàn chỉ lựa những bài anh thích, không chọn vì sự nổi tiếng của nhà thơ vĩ đại.
Nỗi niềm say mê nhiều khi “hành” Thuý Toàn đến lạ. Có bài anh đã bắt đầu, nhưng không ưng ý với kết quả dịch của mình, để rồi 20 năm sau mới có dịp “tái hợp”. Đó là trường hợp bài Buổi sáng mùa đông của Puskin. Sự lao tâm khổ tứ, không đành lòng qua loa với một bài thơ trong suốt 20 năm ấy chắc chắn không phải để mong đợi đồng nhuận bút còm cõi hoặc cao hơn thế, một giải thưởng nào đấy, mà chỉ vì một cái gì đó đắm đuối, thiêng liêng của nhu cầu sáng tạo không ngừng. Ngày xưa không tiện phô tô như bây giờ, anh đã từng cặm cụi chép hàng quyển thơ bằng tiếng Nga, trân trọng giữ gìn như vật báu. Nếu ai có dịp đi đón anh ở nước ngoài về chắc hẳn hơn một lần phải khiêng hộ anh những kiện hàng toàn sách là sách. Thời buổi cơ chế thị trường hiện nay, hẳn có nhiều người không hiểu được nỗi đam mê chữ nghĩa của anh. Trong số hàng triệu độc giả từng đọc thơ Nga, truyện cổ dân gian các nước, các sách do anh biên soạn..., đã mấy người thông cảm được với nỗi nhọc nhằn, vất vả trong từng câu chữ của một công việc nhiều lúc thật bạc tình như dịch thuật.”
(Trích Thuý Toàn - Dịch giả nghệ sĩ, Lộc Phương Thuỷ, theo vannghequandoi.com.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [701675]: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: thuyết minh.
Câu 2 [701676]: Theo đoạn trích, cú hích quan trọng nhất đẩy dịch giả Thuý Toàn đến với kho tàng văn học thế giới là gì?
Theo đoạn trích, cú hích quan trọng nhất đẩy dịch giả Thuý Toàn đến với kho tàng văn học thế giới là: vốn ngôn ngữ, tri thức và vốn sống của dịch giả Thuý Toàn trong 12 năm học tập xa Tổ quốc (4 năm ở Trung Quốc và 8 năm ở Liên Xô).
Câu 3 [701677]: Có bài anh đã bắt đầu, nhưng không ưng ý với kết quả dịch của mình, để rồi 20 năm sau mới có dịp “tái hợp”.
Chi tiết trên thể hiện phẩm chất nào của dịch giả Thuý Toàn trong công việc?
Chi tiết trên thể hiện phẩm chất nào của dịch giả Thuý Toàn trong công việc?
Có bài anh đã bắt đầu, nhưng không ưng ý với kết quả dịch của mình, để rồi 20 năm sau mới có dịp “tái hợp”.
Chi tiết thể hiện thái độ làm việc nghiêm túc, coi trọng chất lượng sản phẩm của dịch giả Thuý Toàn trong công việc.
Chi tiết thể hiện thái độ làm việc nghiêm túc, coi trọng chất lượng sản phẩm của dịch giả Thuý Toàn trong công việc.
Câu 4 [701678]: Trong số hàng triệu độc giả từng đọc thơ Nga, truyện cổ dân gian các nước, các sách do anh biên soạn..., đã mấy người thông cảm được với nỗi nhọc nhằn, vất vả trong từng câu chữ của một công việc nhiều lúc thật bạc tình như dịch thuật.
Chi tiết bộc lộ tình cảm nào của người viết đối với đối tượng của đoạn trích?
Chi tiết bộc lộ tình cảm nào của người viết đối với đối tượng của đoạn trích?
Trong số hàng triệu độc giả từng đọc thơ Nga, truyện cổ dân gian các nước, các sách do anh biên soạn..., đã mấy người thông cảm được với nỗi nhọc nhằn, vất vả trong từng câu chữ của một công việc nhiều lúc thật bạc tình như dịch thuật.
Chi tiết bộc lộ sự thấu hiểu, đồng cảm và thái độ trân trọng của người viết đối với công việc dịch thuật công phu, nhọc nhằn của dịch giả Thuý Toàn.
Chi tiết bộc lộ sự thấu hiểu, đồng cảm và thái độ trân trọng của người viết đối với công việc dịch thuật công phu, nhọc nhằn của dịch giả Thuý Toàn.
Câu 5 [701679]: Theo anh/chị, vốn ngôn ngữ, tri thức và vốn sống có phải chỉ cần thiết với các dịch giả không? Vì sao?
Thí sinh tự do bày tỏ quan điểm cá nhân về ý kiến; đồng thời lí giải rõ nguyên do một cách hợp lí, thuyết phục. Chẳng hạn:
Vốn ngôn ngữ, tri thức và vốn sống không phải chỉ cần thiết với các dịch giả mà cần thiết với mỗi chúng ta vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu, quan trọng của con người còn tri thức, vốn sống là những hiểu biết cần thiết để con người ứng xử với bản thân, với thế giới xung quanh. Thiếu đi vốn ngôn ngữ, tri thức, vốn sống, chúng ta sẽ bị “ngắt kết nối” với cộng đồng, với thế giới và khó có thể sinh tồn.
Vốn ngôn ngữ, tri thức và vốn sống không phải chỉ cần thiết với các dịch giả mà cần thiết với mỗi chúng ta vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu, quan trọng của con người còn tri thức, vốn sống là những hiểu biết cần thiết để con người ứng xử với bản thân, với thế giới xung quanh. Thiếu đi vốn ngôn ngữ, tri thức, vốn sống, chúng ta sẽ bị “ngắt kết nối” với cộng đồng, với thế giới và khó có thể sinh tồn.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [701680]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của tình yêu công việc đối với mỗi con người.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của tình yêu công việc đối với mỗi con người.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu công việc đối với mỗi con người có thể được triển khai theo theo hướng:
- Tình yêu công việc mang lại cho mỗi người niềm vui, sự hứng thú, say mê; là động lực vượt qua những trở lực trong lao động, khơi nguồn cho cảm hứng sáng tạo ở mỗi người, tăng hiệu suất và chất lượng lao động. (Dẫn chứng: Sự say mê công việc của Steve Jobs không chỉ giúp Apple trở thành một trong những công ty hàng đầu thế giới mà còn tạo ra những sản phẩm có ảnh hưởng sâu rộng, thay đổi cả ngành công nghệ; họa sĩ Vincent van Gogh với tình yêu nghệ thuật đã vẽ hơn 2.100 tác phẩm trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình; tỷ phú Elon Musk chia sẻ rằng tình yêu công việc và đam mê với các dự án của mình là động lực thúc đẩy ông vượt qua những khó khăn lớn trong quá trình xây dựng và phát triển công ty....)
- Tình yêu công việc trong mỗi người là một tình cảm đẹp đẽ, có ý nghĩa xã hội: lan toả tinh thần lao động hăng say tới cộng đồng, từ đó, góp phần thúc đẩy cộng động không ngừng vận động, phát triển. (Dẫn chứng: doanh nhân như Phạm Nhật Vượng đã biến tình yêu công việc thành nguồn cảm hứng xã hội, xây dựng những doanh nghiệp tầm cỡ quốc tế, tạo hàng nghìn việc làm và nâng cao hình ảnh Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới; các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế, đặc biệt trong thời gian đại dịch COVID-19, đã thể hiện tình yêu và sự cống hiến cho công việc khi họ không ngừng nỗ lực cứu chữa bệnh nhân, bất chấp nguy cơ nhiễm bệnh....)
- Tình yêu công việc mang lại cho mỗi người niềm vui, sự hứng thú, say mê; là động lực vượt qua những trở lực trong lao động, khơi nguồn cho cảm hứng sáng tạo ở mỗi người, tăng hiệu suất và chất lượng lao động. (Dẫn chứng: Sự say mê công việc của Steve Jobs không chỉ giúp Apple trở thành một trong những công ty hàng đầu thế giới mà còn tạo ra những sản phẩm có ảnh hưởng sâu rộng, thay đổi cả ngành công nghệ; họa sĩ Vincent van Gogh với tình yêu nghệ thuật đã vẽ hơn 2.100 tác phẩm trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình; tỷ phú Elon Musk chia sẻ rằng tình yêu công việc và đam mê với các dự án của mình là động lực thúc đẩy ông vượt qua những khó khăn lớn trong quá trình xây dựng và phát triển công ty....)
- Tình yêu công việc trong mỗi người là một tình cảm đẹp đẽ, có ý nghĩa xã hội: lan toả tinh thần lao động hăng say tới cộng đồng, từ đó, góp phần thúc đẩy cộng động không ngừng vận động, phát triển. (Dẫn chứng: doanh nhân như Phạm Nhật Vượng đã biến tình yêu công việc thành nguồn cảm hứng xã hội, xây dựng những doanh nghiệp tầm cỡ quốc tế, tạo hàng nghìn việc làm và nâng cao hình ảnh Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới; các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế, đặc biệt trong thời gian đại dịch COVID-19, đã thể hiện tình yêu và sự cống hiến cho công việc khi họ không ngừng nỗ lực cứu chữa bệnh nhân, bất chấp nguy cơ nhiễm bệnh....)
Câu 7 [701681]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) cảm nhận về vẻ đẹp của quê hương đất nước trong bài thơ sau:
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Bao xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) cảm nhận về vẻ đẹp của quê hương đất nước trong bài thơ sau:
MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
(Quang Dũng)
Em ở thành Sơn chạy giặc vềTôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Bao xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?
Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Thương vườn ruộng khôn khuây
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng.
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?
1949
(Theo qdnd.vn)
Bài văn cảm nhận về vẻ đẹp của quê hương đất nước trong bài thơ Mắt người Sơn Tây (Quang Dũng) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả Quang Dũng, tác phẩm Mắt người Sơn Tây
- Quang Dũng:
+ Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
+ Đặc điểm sáng tác:
• Viết nhiều và viết hay nhất ở hai mảng đề tài người lính và xứ Đoài quê ông.
• Thơ Quang Dũng đậm chất hoạ, chất nhạc (do Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ngoài làm thơ ông còn viết truyện, vẽ tranh, soạn nhạc).
• Hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa.
- Mắt người Sơn Tây:
+ Được viết năm 1949 - thời điểm thuộc giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Đề tài quê hương đất nước - một đề tài quen thuộc trong thơ ca (“Đồng chí” - Chính Hữu, “Nhớ” - Hồng Nguyên, “Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm, “Việt Bắc” - Tố Hữu, “Đất nước” - Nguyễn Đình Thi, “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm, “Đi trong hương tràm” - Hoài Vũ, “Quê hương” - Giang Nam, “Mùa hoa mận” - Chu Thuỳ Liên, “Tổ quốc” - Nguyễn Sĩ Đại,...).+ Thể thơ: Trừ khổ thơ thứ năm, bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ.
+ Nhân vật trữ tình: “tôi” - một người lính, một người con của “xứ Đoài mây trắng”.
+ Cảm hứng chủ đạo: nỗi nhớ thương quê hương.
+ Bố cục:
• Khổ đầu: Tình huống gặp gỡ tình cờ giữa “tôi” và “em” - người con gái xứ Đoài
• Bốn khổ tiếp: Nỗi nhớ quê hương, gia đình, xóm làng và niềm đau xót, những âu lo, thấp thỏm trong hình dung về quê hương khi bị giặc giày xéo.
• Hai khổ cuối: Khao khát ngày hoà bình được trở về quê hương, được gặp lại “em”.
* Cảm nhận về vẻ đẹp của quê hương đất nước trong bài thơ Mắt người Sơn Tây
- Cảm nhận chung: Trong bài thơ, hình ảnh quê hương của nhân vật trữ tình “tôi” hiện lên qua:
+ Suốt dọc bài thơ là hàng loạt từ ngữ chỉ địa danh, sơn danh, địa điểm: “thành Sơn”, “Bất Bạt”, “Ba Vì”, “Tây Phương”, “xứ Đoài”, “Sơn Tây”, “Bương Cấn”, “Sài Sơn”, “Sông Đáy”, “Phủ Quốc”. ⟶ Quê hương hiện lên rõ nét, chi tiết từng nơi, từng chốn, từng khung cảnh núi, sông, đồng, ruộng trong tâm trí người xa quê đi chinh chiến.
+ Hình ảnh “xứ Đoài mây trắng” được miêu tả bởi cả hai đặc điểm tươi đẹp, đau thương nhưng sau tất cả ấn tượng về vẻ đẹp có phần đậm nét, lắng đọng hơn và ngay cả trong đau thương vẫn tươi đẹp (“Đất đá ong khô nhiều suối lệ”).
- Cảm nhận chi tiết:
+ Xứ Đoài vẹn nguyên tươi đẹp trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “tôi” những ngày chinh chiến xa quê nhà:
• Hai dòng thơ “Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt/ Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì” trong khổ thơ thứ nhất không tả mà chỉ gợi những hình ảnh những dãy núi sừng sững cao ngất, bảng lảng khói sương vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, huyền hoặc của chốn non nước linh thiêng - nơi ngự trị của đấng tối linh (núi Tản Viên Đức Thánh Tản và Ngọc Hoa công chúa).
• Các chi tiết “buồn Tây Phương”, “xứ Đoài mây trắng” trong khổ thơ thứ hai gợi một không gian cao rộng, khoáng đạt, thanh tĩnh, yên bình, man mác nỗi buồn thời li loạn.
• Câu thơ “Đất đá ong khô nhiều suối lệ” dùng hình ảnh đặc trưng của mảnh đất Sơn Tây - “đất đá ong” (chất đất ở dưới nước sâu thì mềm, thấm nước vì có nhiều lỗ hổng, nhưng khi đào và đưa lên mặt đất thì kết dính và tạo thành đá rắn chắc) để diễn tả nỗi đau thương của quê hương trong chiến tranh li loạn. Song, điều đáng nói là cụm từ “suối lệ” (“lệ” là một từ Hán Việt) lại mĩ lệ hoá nỗi đau ấy, khiến người đọc có hình dung ngay cả trong đau thương, quê hương ấy vẫn hiện lên thật đẹp.
(Liên hệ hình ảnh quê hương tươi đẹp trong quá khứ ở bài thơ “Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm.)
+ Xứ Đoài tươi đẹp trong mộng tưởng tương lai:
• Các chi tiết gợi tả không gian “đồng Bương Cấn”, “núi Sài Sơn”, “sông Đáy” mang đến cảm nhận về một khung cảnh nên thơ, trữ tình.
• Chuỗi hình ảnh “lúa vàng”, dòng sông “chậm nguồn qua Phủ Quốc”, âm thanh “sáo diều” vi vút trong “đêm trăng - khuy khoắt” hay những tiếng ca rộn ràng trong cuộc sống đời thường vừa gợi cảm nhận về sự giàu có, trù phú vừa mang đến hình dung về một cảnh đời mới mẻ, bình yên, êm lặng khi quê hương sạch bóng quân thù (chú ý các tính từ: “lúa vàng”, “chậm nguồn”, “khuya khoắt”, “thanh bình”, “rộn tiếng ca”).
* Đánh giá chung
- “Mắt người Sơn Tây” đã khắc hoạ thành công hình tượng quê hương đất nước tươi đẹp trong kháng chiến (liên hệ: vẻ đẹp quê hương đất nước trong “Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm, “Việt Bắc” - Tố Hữu,...), góp phần làm phong phú thêm cho đề tài quê hương đất nước trong thơ ca Việt Nam; từ đó, bộc lộ đậm nét tình yêu quê hương đất nước trong Quang Dũng; lan thấm, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước trong bạn đọc mọi thế hệ.
- Quang Dũng đã vận dụng thành công thủ pháp gợi tả kết hợp với bút pháp trữ tình khi khắc hoạ vẻ đẹp của quê hương “xứ Đoài mây trắng”; đối lập giữa quê hương đất nước tươi đẹp trong quá khứ và tương lai với quê hương đau thương trong hiện tại; giọng thơ khi tha thiết nhớ thương lúc khát khao trở lại;...
<*> Tham khảo bài viết:
Quang Dũng hiển nhiên là một trong số các nhà thơ chống Pháp tiêu biểu nhất. Đọc thơ ông có thể dễ dàng cảm nhận được tinh thần và nghệ thuật thơ ca thời kì này: Đầy tính lãng mạn pha trộn với chất kiêu hùng, tràn tính nhạc lẫn những câu thơ ngắn dài khác nhau rất khỏe khoắn. “Mắt người Sơn Tây” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ ca tài hoa của Quang Dũng, nổi tiếng chẳng kém bài thơ “Tây Tiến” nhiều năm được giảng dạy trong nhà trường.
Bài thơ có 7 khổ thơ thì 5 khổ thơ đầu vẽ lên khung cảnh ở thời hiện tại với cảnh chiến tranh đau thương, với những câu thơ tả thực đau lòng: “Mẹ tôi em có gặp đâu không/ Bao xác già nua ngập cánh đồng/ Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ/ Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông”.
Giữa khung cảnh bi thương đó, xuất hiện “nàng thơ” được Quang Dũng gọi là “em”. Khi bài thơ “Mắt người Sơn Tây” ra đời ngay lập tức đã nổi tiếng, được phổ nhạc, nhiều người đã cất công đi tìm hiểu xem nhân vật “em” trong bài thơ là ai. Thực ra, với nghệ sĩ lãng mạn như Quang Dũng có một người yêu thật sự gợi cảm hứng để làm thơ hay là một “em” tưởng tượng thì không mấy quan trọng. Chủ nghĩa lãng mạn thường tìm cách thi vị hóa mọi thứ, có khi người được gọi là “em” trong bài thơ chỉ là một cô bé hàng xóm chưa biết chuyện ái tình đã được nhà thơ tưởng tượng thành một “nàng thơ” để trút bầu tâm sự.
Sự thi vị hóa của chủ nghĩa lãng mạn không chỉ khiến Quang Dũng hư cấu hoàn cảnh hai người đồng hương Sơn Tây, giữa “ta” và “em” chạy giặc vô tình gặp nhau mà ông còn nhìn vẻ đẹp của người con gái ấy hòa lẫn với vẻ đẹp quê hương yêu dấu: “Vầng trán em mang trời quê hương/ Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương”. Rõ ràng, nhân vật “em” trong bài thơ xuất hiện để nhà thơ nói lên lòng yêu quê hương xứ Đoài của mình: “Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm/ Em có bao giờ em nhớ thương?”. Và không khó để kết luận, “Mắt người Sơn Tây” là một trong những bài thơ nói về tình cảm yêu quê hương, đất nước hay nhất thời chống Pháp.
Cũng với tình cảm yêu quê hương như thế, người đọc dễ hiểu ý nghĩa hai khổ thơ cuối là một mong ước ở thì tương lai khi viễn tưởng đồng quê trở lại khung cảnh yên bình, dẫu cho ngày đó vẫn còn xa: “Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn/ Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng/ Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc/ Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng. Bao giờ tôi gặp em lần nữa/ Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca/ Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/ Còn có bao giờ em nhớ ta?”.
Và sau chót, đọc hai khổ thơ cuối người đọc cảm nhận được một cách gián tiếp tâm hồn của người lính chống Pháp. Đó là những con người sẵn sàng chịu đựng mọi hi sinh gian khổ để đứng lên cầm súng bảo vệ quê hương với tâm hồn lãng mạn của tuổi trẻ.
* Giới thiệu khái quát tác giả Quang Dũng, tác phẩm Mắt người Sơn Tây
- Quang Dũng:
+ Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
+ Đặc điểm sáng tác:
• Viết nhiều và viết hay nhất ở hai mảng đề tài người lính và xứ Đoài quê ông.
• Thơ Quang Dũng đậm chất hoạ, chất nhạc (do Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ngoài làm thơ ông còn viết truyện, vẽ tranh, soạn nhạc).
• Hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa.
- Mắt người Sơn Tây:
+ Được viết năm 1949 - thời điểm thuộc giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Đề tài quê hương đất nước - một đề tài quen thuộc trong thơ ca (“Đồng chí” - Chính Hữu, “Nhớ” - Hồng Nguyên, “Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm, “Việt Bắc” - Tố Hữu, “Đất nước” - Nguyễn Đình Thi, “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm, “Đi trong hương tràm” - Hoài Vũ, “Quê hương” - Giang Nam, “Mùa hoa mận” - Chu Thuỳ Liên, “Tổ quốc” - Nguyễn Sĩ Đại,...).+ Thể thơ: Trừ khổ thơ thứ năm, bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ.
+ Nhân vật trữ tình: “tôi” - một người lính, một người con của “xứ Đoài mây trắng”.
+ Cảm hứng chủ đạo: nỗi nhớ thương quê hương.
+ Bố cục:
• Khổ đầu: Tình huống gặp gỡ tình cờ giữa “tôi” và “em” - người con gái xứ Đoài
• Bốn khổ tiếp: Nỗi nhớ quê hương, gia đình, xóm làng và niềm đau xót, những âu lo, thấp thỏm trong hình dung về quê hương khi bị giặc giày xéo.
• Hai khổ cuối: Khao khát ngày hoà bình được trở về quê hương, được gặp lại “em”.
* Cảm nhận về vẻ đẹp của quê hương đất nước trong bài thơ Mắt người Sơn Tây
- Cảm nhận chung: Trong bài thơ, hình ảnh quê hương của nhân vật trữ tình “tôi” hiện lên qua:
+ Suốt dọc bài thơ là hàng loạt từ ngữ chỉ địa danh, sơn danh, địa điểm: “thành Sơn”, “Bất Bạt”, “Ba Vì”, “Tây Phương”, “xứ Đoài”, “Sơn Tây”, “Bương Cấn”, “Sài Sơn”, “Sông Đáy”, “Phủ Quốc”. ⟶ Quê hương hiện lên rõ nét, chi tiết từng nơi, từng chốn, từng khung cảnh núi, sông, đồng, ruộng trong tâm trí người xa quê đi chinh chiến.
+ Hình ảnh “xứ Đoài mây trắng” được miêu tả bởi cả hai đặc điểm tươi đẹp, đau thương nhưng sau tất cả ấn tượng về vẻ đẹp có phần đậm nét, lắng đọng hơn và ngay cả trong đau thương vẫn tươi đẹp (“Đất đá ong khô nhiều suối lệ”).
- Cảm nhận chi tiết:
+ Xứ Đoài vẹn nguyên tươi đẹp trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “tôi” những ngày chinh chiến xa quê nhà:
• Hai dòng thơ “Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt/ Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì” trong khổ thơ thứ nhất không tả mà chỉ gợi những hình ảnh những dãy núi sừng sững cao ngất, bảng lảng khói sương vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, huyền hoặc của chốn non nước linh thiêng - nơi ngự trị của đấng tối linh (núi Tản Viên Đức Thánh Tản và Ngọc Hoa công chúa).
• Các chi tiết “buồn Tây Phương”, “xứ Đoài mây trắng” trong khổ thơ thứ hai gợi một không gian cao rộng, khoáng đạt, thanh tĩnh, yên bình, man mác nỗi buồn thời li loạn.
• Câu thơ “Đất đá ong khô nhiều suối lệ” dùng hình ảnh đặc trưng của mảnh đất Sơn Tây - “đất đá ong” (chất đất ở dưới nước sâu thì mềm, thấm nước vì có nhiều lỗ hổng, nhưng khi đào và đưa lên mặt đất thì kết dính và tạo thành đá rắn chắc) để diễn tả nỗi đau thương của quê hương trong chiến tranh li loạn. Song, điều đáng nói là cụm từ “suối lệ” (“lệ” là một từ Hán Việt) lại mĩ lệ hoá nỗi đau ấy, khiến người đọc có hình dung ngay cả trong đau thương, quê hương ấy vẫn hiện lên thật đẹp.
(Liên hệ hình ảnh quê hương tươi đẹp trong quá khứ ở bài thơ “Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm.)
+ Xứ Đoài tươi đẹp trong mộng tưởng tương lai:
• Các chi tiết gợi tả không gian “đồng Bương Cấn”, “núi Sài Sơn”, “sông Đáy” mang đến cảm nhận về một khung cảnh nên thơ, trữ tình.
• Chuỗi hình ảnh “lúa vàng”, dòng sông “chậm nguồn qua Phủ Quốc”, âm thanh “sáo diều” vi vút trong “đêm trăng - khuy khoắt” hay những tiếng ca rộn ràng trong cuộc sống đời thường vừa gợi cảm nhận về sự giàu có, trù phú vừa mang đến hình dung về một cảnh đời mới mẻ, bình yên, êm lặng khi quê hương sạch bóng quân thù (chú ý các tính từ: “lúa vàng”, “chậm nguồn”, “khuya khoắt”, “thanh bình”, “rộn tiếng ca”).
* Đánh giá chung
- “Mắt người Sơn Tây” đã khắc hoạ thành công hình tượng quê hương đất nước tươi đẹp trong kháng chiến (liên hệ: vẻ đẹp quê hương đất nước trong “Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm, “Việt Bắc” - Tố Hữu,...), góp phần làm phong phú thêm cho đề tài quê hương đất nước trong thơ ca Việt Nam; từ đó, bộc lộ đậm nét tình yêu quê hương đất nước trong Quang Dũng; lan thấm, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước trong bạn đọc mọi thế hệ.
- Quang Dũng đã vận dụng thành công thủ pháp gợi tả kết hợp với bút pháp trữ tình khi khắc hoạ vẻ đẹp của quê hương “xứ Đoài mây trắng”; đối lập giữa quê hương đất nước tươi đẹp trong quá khứ và tương lai với quê hương đau thương trong hiện tại; giọng thơ khi tha thiết nhớ thương lúc khát khao trở lại;...
<*> Tham khảo bài viết:
Quang Dũng hiển nhiên là một trong số các nhà thơ chống Pháp tiêu biểu nhất. Đọc thơ ông có thể dễ dàng cảm nhận được tinh thần và nghệ thuật thơ ca thời kì này: Đầy tính lãng mạn pha trộn với chất kiêu hùng, tràn tính nhạc lẫn những câu thơ ngắn dài khác nhau rất khỏe khoắn. “Mắt người Sơn Tây” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ ca tài hoa của Quang Dũng, nổi tiếng chẳng kém bài thơ “Tây Tiến” nhiều năm được giảng dạy trong nhà trường.
Bài thơ có 7 khổ thơ thì 5 khổ thơ đầu vẽ lên khung cảnh ở thời hiện tại với cảnh chiến tranh đau thương, với những câu thơ tả thực đau lòng: “Mẹ tôi em có gặp đâu không/ Bao xác già nua ngập cánh đồng/ Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ/ Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông”.
Giữa khung cảnh bi thương đó, xuất hiện “nàng thơ” được Quang Dũng gọi là “em”. Khi bài thơ “Mắt người Sơn Tây” ra đời ngay lập tức đã nổi tiếng, được phổ nhạc, nhiều người đã cất công đi tìm hiểu xem nhân vật “em” trong bài thơ là ai. Thực ra, với nghệ sĩ lãng mạn như Quang Dũng có một người yêu thật sự gợi cảm hứng để làm thơ hay là một “em” tưởng tượng thì không mấy quan trọng. Chủ nghĩa lãng mạn thường tìm cách thi vị hóa mọi thứ, có khi người được gọi là “em” trong bài thơ chỉ là một cô bé hàng xóm chưa biết chuyện ái tình đã được nhà thơ tưởng tượng thành một “nàng thơ” để trút bầu tâm sự.
Sự thi vị hóa của chủ nghĩa lãng mạn không chỉ khiến Quang Dũng hư cấu hoàn cảnh hai người đồng hương Sơn Tây, giữa “ta” và “em” chạy giặc vô tình gặp nhau mà ông còn nhìn vẻ đẹp của người con gái ấy hòa lẫn với vẻ đẹp quê hương yêu dấu: “Vầng trán em mang trời quê hương/ Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương”. Rõ ràng, nhân vật “em” trong bài thơ xuất hiện để nhà thơ nói lên lòng yêu quê hương xứ Đoài của mình: “Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm/ Em có bao giờ em nhớ thương?”. Và không khó để kết luận, “Mắt người Sơn Tây” là một trong những bài thơ nói về tình cảm yêu quê hương, đất nước hay nhất thời chống Pháp.
Cũng với tình cảm yêu quê hương như thế, người đọc dễ hiểu ý nghĩa hai khổ thơ cuối là một mong ước ở thì tương lai khi viễn tưởng đồng quê trở lại khung cảnh yên bình, dẫu cho ngày đó vẫn còn xa: “Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn/ Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng/ Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc/ Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng. Bao giờ tôi gặp em lần nữa/ Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca/ Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/ Còn có bao giờ em nhớ ta?”.
Và sau chót, đọc hai khổ thơ cuối người đọc cảm nhận được một cách gián tiếp tâm hồn của người lính chống Pháp. Đó là những con người sẵn sàng chịu đựng mọi hi sinh gian khổ để đứng lên cầm súng bảo vệ quê hương với tâm hồn lãng mạn của tuổi trẻ.
(Theo Việt Phong, qdnd.vn)