I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Có phải văn học khiến con người sống tốt, sống tử tế... mà bạn bè tôi mỗi khi gặp nhau nói chuyện về gia đình thì cứ chen những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao vào lời nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”, hoặc: “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”, và: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”... Không quên! Bạn bè tôi được học từ thời phổ thông, vẫn nhớ. Văn học dân gian mang hình ảnh người thân gần gũi, nhắc nhở phận sự làm một thành viên gia đình... in vào trong đầu chúng tôi, cứ lấp lánh, vang vọng.
Ấy là chưa kể những kinh nghiệm sản xuất trong văn học dân gian: “Nhất nước, nhì phân, tam cần tứ giống”, “Sấm Mường Lạ, để dạ mà ăn/ Sấm Mường Ngay, quăng bừa cày lên gá”...; hay ứng xử, kinh nghiệm sống: “Hiểu đàn ông xem bờ ruộng/ Xét đàn bà nhìn gấu váy”. “Dao sắc gãy chuôi/ Người ngay dễ chết”... có ích rất nhiều trong đời sống người dân thật thà, chất phác và quá trình hình thành lối sống nhân ái.
Văn học còn bồi đắp, nuôi dưỡng lòng yêu thương những thân phận bất hạnh, yết ớt trong cuộc đời bất công khốn khó. Tôi vẫn tin một điều: bất cứ ai đã từng đọc tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố sẽ buồn thương và xót xa với số phận chị Dậu. Cháu tôi 7 tuổi cùng bốn năm đứa bạn xem phim “Làng Vũ đại ngày ấy” đã chảy nước mắt khi đến đoạn chị Dậu bán chó, bán con, cái Tí phải sang làm con ở nhà Nghị Quế. Có đứa buột miệng: “Tại sao chị Dậu phải bán con?”. Đứa bên cạnh bảo: “Vì chị ấy nghèo”. Lại có đứa hỏi: “Vì sao chị ấy nghèo?”. Câu hỏi và trả lời của bọn trẻ con tưởng như không bao giờ dứt, và tôi cũng nhận ra một điều giản dị: Văn học, nghệ thuật đã tác động vào tâm hồn trẻ thơ, mở ra cho chúng chân trời mới bí ẩn kích thích khám phá, sáng tạo và nghĩ ngợi. Cái cách phản ánh hiện thực xã hội, đánh thức ánh sáng lương tâm con người thì không có chuyên ngành xã hội nhân văn nào làm tốt hơn văn học nghệ thuật? [...]
Bạn đã run rẩy hay xao xuyến, bâng khuâng trước một thiên nhiên lộng lẫy được miêu tả trong thơ văn chưa? Tôi thì có rồi đấy. “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”, hoặc ”Dưới trăng quyên đã gọi hè/ Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”... những câu thơ ấy chỉ miêu tả thiên nhiên, con vật mà gợi mở, kéo người đọc vào cảnh vật vừa gần gũi vừa xa xăm, đẩy trí tưởng tượng đến mênh mông tận cùng, khiến cho cảnh sinh tình, làm cho chúng ta thêm yêu thiên nhiên, biết thụ hưởng vẻ đẹp của tạo hóa.
Tôi cũng đã từng viết những câu: “Sương mù bay suốt cả giêng hai. Đất trời làng quê vẫn trắng đục màu sữa. Lãng đãng. Bồng bềnh. Hư ảo. Mái rạ, bụi ruối, vườn rau, luống cày đất ải... đều chìm trong màn sương... Những hôm sương mù nặng, đi chợ sớm mới ra khỏi đầu làng đã ướt tóc mai, ướt vai áo gụ. Người đi làm đồng, trâu bò, gồng gánh, cày bừa cũng chìm ngập trong biển mù sương, ngỡ mình đang mơ lạc sang cõi khác. Chỉ nghe tiếng khao khao lúc gần lúc xa mà đoán những người hàng xóm là ai đã đi đến đoạn đường nào...”. Bạn bè tôi ở thành phố cứ ước ao có dịp về làng tôi để được đi trong sương mù như thế, để cảm nhận và trải nghiệm cái se se lạnh mùa giêng hai nhà quê. Chỉ bằng đoạn tản văn tả cảnh vật thôi cũng đủ làm cho người đọc lay động, bâng khuâng trước vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên thì có niềm vui nào hơn nữa?
Văn học cũng chắp cánh cho ước mơ bay lên. Tôi tin rằng học sinh phổ thông đã từng đọc “Hoàng tử bé” của Saint-Exupéry sẽ cảm thấy mình phiêu lưu vào tiểu tinh cầu B612 có ba ngọn núi lửa và một bông hoa hồng. Bạn đọc trẻ sẽ muốn được làm Hoàng tử bé để đi du ngoạn, khám phá phần còn lại của vũ trụ và thả hồn, thao thức với không gian lạ xa, bí ẩn của thiên hà. Văn học đã làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn, tạm quên những chuyện mưu sinh lầm lũi thường ngày để bay lên khỏi mặt đất như thế.”
“Có phải văn học khiến con người sống tốt, sống tử tế... mà bạn bè tôi mỗi khi gặp nhau nói chuyện về gia đình thì cứ chen những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao vào lời nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”, hoặc: “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”, và: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”... Không quên! Bạn bè tôi được học từ thời phổ thông, vẫn nhớ. Văn học dân gian mang hình ảnh người thân gần gũi, nhắc nhở phận sự làm một thành viên gia đình... in vào trong đầu chúng tôi, cứ lấp lánh, vang vọng.
Ấy là chưa kể những kinh nghiệm sản xuất trong văn học dân gian: “Nhất nước, nhì phân, tam cần tứ giống”, “Sấm Mường Lạ, để dạ mà ăn/ Sấm Mường Ngay, quăng bừa cày lên gá”...; hay ứng xử, kinh nghiệm sống: “Hiểu đàn ông xem bờ ruộng/ Xét đàn bà nhìn gấu váy”. “Dao sắc gãy chuôi/ Người ngay dễ chết”... có ích rất nhiều trong đời sống người dân thật thà, chất phác và quá trình hình thành lối sống nhân ái.
Văn học còn bồi đắp, nuôi dưỡng lòng yêu thương những thân phận bất hạnh, yết ớt trong cuộc đời bất công khốn khó. Tôi vẫn tin một điều: bất cứ ai đã từng đọc tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố sẽ buồn thương và xót xa với số phận chị Dậu. Cháu tôi 7 tuổi cùng bốn năm đứa bạn xem phim “Làng Vũ đại ngày ấy” đã chảy nước mắt khi đến đoạn chị Dậu bán chó, bán con, cái Tí phải sang làm con ở nhà Nghị Quế. Có đứa buột miệng: “Tại sao chị Dậu phải bán con?”. Đứa bên cạnh bảo: “Vì chị ấy nghèo”. Lại có đứa hỏi: “Vì sao chị ấy nghèo?”. Câu hỏi và trả lời của bọn trẻ con tưởng như không bao giờ dứt, và tôi cũng nhận ra một điều giản dị: Văn học, nghệ thuật đã tác động vào tâm hồn trẻ thơ, mở ra cho chúng chân trời mới bí ẩn kích thích khám phá, sáng tạo và nghĩ ngợi. Cái cách phản ánh hiện thực xã hội, đánh thức ánh sáng lương tâm con người thì không có chuyên ngành xã hội nhân văn nào làm tốt hơn văn học nghệ thuật? [...]
Bạn đã run rẩy hay xao xuyến, bâng khuâng trước một thiên nhiên lộng lẫy được miêu tả trong thơ văn chưa? Tôi thì có rồi đấy. “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”, hoặc ”Dưới trăng quyên đã gọi hè/ Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”... những câu thơ ấy chỉ miêu tả thiên nhiên, con vật mà gợi mở, kéo người đọc vào cảnh vật vừa gần gũi vừa xa xăm, đẩy trí tưởng tượng đến mênh mông tận cùng, khiến cho cảnh sinh tình, làm cho chúng ta thêm yêu thiên nhiên, biết thụ hưởng vẻ đẹp của tạo hóa.
Tôi cũng đã từng viết những câu: “Sương mù bay suốt cả giêng hai. Đất trời làng quê vẫn trắng đục màu sữa. Lãng đãng. Bồng bềnh. Hư ảo. Mái rạ, bụi ruối, vườn rau, luống cày đất ải... đều chìm trong màn sương... Những hôm sương mù nặng, đi chợ sớm mới ra khỏi đầu làng đã ướt tóc mai, ướt vai áo gụ. Người đi làm đồng, trâu bò, gồng gánh, cày bừa cũng chìm ngập trong biển mù sương, ngỡ mình đang mơ lạc sang cõi khác. Chỉ nghe tiếng khao khao lúc gần lúc xa mà đoán những người hàng xóm là ai đã đi đến đoạn đường nào...”. Bạn bè tôi ở thành phố cứ ước ao có dịp về làng tôi để được đi trong sương mù như thế, để cảm nhận và trải nghiệm cái se se lạnh mùa giêng hai nhà quê. Chỉ bằng đoạn tản văn tả cảnh vật thôi cũng đủ làm cho người đọc lay động, bâng khuâng trước vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên thì có niềm vui nào hơn nữa?
Văn học cũng chắp cánh cho ước mơ bay lên. Tôi tin rằng học sinh phổ thông đã từng đọc “Hoàng tử bé” của Saint-Exupéry sẽ cảm thấy mình phiêu lưu vào tiểu tinh cầu B612 có ba ngọn núi lửa và một bông hoa hồng. Bạn đọc trẻ sẽ muốn được làm Hoàng tử bé để đi du ngoạn, khám phá phần còn lại của vũ trụ và thả hồn, thao thức với không gian lạ xa, bí ẩn của thiên hà. Văn học đã làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn, tạm quên những chuyện mưu sinh lầm lũi thường ngày để bay lên khỏi mặt đất như thế.”
(Trích Văn chương có ích gì? - Sương Nguyệt Minh, theo vanvn.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706220]: Đoạn trích bàn về vấn đề gì?
Vấn đề bàn luận của đoạn trích: Sức tác động kì diệu của văn chương đến con người và cuộc sống.
Câu 2 [706221]: Chỉ ra hệ thống lí lẽ trong đoạn trích.
Hệ thống lí lẽ trong đoạn trích:
- Văn học khiến con người sống tốt, sống tử tế.
- Văn học mang đến những bài học kinh nghiệm sản xuất.
- Văn học hình thành lối sống nhân ái, bồi đắp, nuôi dưỡng lòng yêu thương con người.
- Văn học đánh thức ánh sáng lương tâm con người.
- Văn học làm cho người đọc lay động, bâng khuâng trước vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên.
- Văn học chắp cánh cho ước mơ bay lên, làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn.
- Văn học khiến con người sống tốt, sống tử tế.
- Văn học mang đến những bài học kinh nghiệm sản xuất.
- Văn học hình thành lối sống nhân ái, bồi đắp, nuôi dưỡng lòng yêu thương con người.
- Văn học đánh thức ánh sáng lương tâm con người.
- Văn học làm cho người đọc lay động, bâng khuâng trước vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên.
- Văn học chắp cánh cho ước mơ bay lên, làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn.
Câu 3 [706222]: Nêu tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt nghị luận, tự sự trong đoạn trích.
Tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt nghị luận, tự sự trong đoạn trích:
- Các phương thức biểu đạt nghị luận, tự sự trong đoạn trích:
+ Nghị luận: thể hiện ở hệ thống lập luận bao gồm các lí lẽ, dẫn chứng tập trung làm sáng tỏ vai trò của văn học đối với con người và cuộc sống,...
+ Tự sự: chuyện bạn bè “tôi” mỗi khi gặp nhau nói chuyện về gia đình thì cứ chen vào lời nói những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao; chuyện cháu “tôi” cùng bạn bè nó khóc và có những câu hỏi băn khoăn sau khi xem phim Làng Vũ Đại ngày ấy.
+ Nghị luận và tự sự đan xen hoà quyện với nhau.
- Tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt nghị luận, tự sự:
+ Nghị luận giúp người viết thể hiện rõ nét sự nhìn nhận, đánh giá của bản thân về sức tác động của văn chương tới con người và cuộc sống.
+ Tự sự giúp người viết đưa vào đoạn trích nghị luận những bằng chứng sinh động trong thực tế đời sống, những dẫn chứng này khiến đoạn trích nghị luận trở nên chân thực, sống động, thuyết phục hơn.
- Các phương thức biểu đạt nghị luận, tự sự trong đoạn trích:
+ Nghị luận: thể hiện ở hệ thống lập luận bao gồm các lí lẽ, dẫn chứng tập trung làm sáng tỏ vai trò của văn học đối với con người và cuộc sống,...
+ Tự sự: chuyện bạn bè “tôi” mỗi khi gặp nhau nói chuyện về gia đình thì cứ chen vào lời nói những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao; chuyện cháu “tôi” cùng bạn bè nó khóc và có những câu hỏi băn khoăn sau khi xem phim Làng Vũ Đại ngày ấy.
+ Nghị luận và tự sự đan xen hoà quyện với nhau.
- Tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt nghị luận, tự sự:
+ Nghị luận giúp người viết thể hiện rõ nét sự nhìn nhận, đánh giá của bản thân về sức tác động của văn chương tới con người và cuộc sống.
+ Tự sự giúp người viết đưa vào đoạn trích nghị luận những bằng chứng sinh động trong thực tế đời sống, những dẫn chứng này khiến đoạn trích nghị luận trở nên chân thực, sống động, thuyết phục hơn.
Câu 4 [706223]: Văn học đã làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn, tạm quên những chuyện mưu sinh lầm lũi thường ngày để bay lên khỏi mặt đất như thế.
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ trong câu văn trên.
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ trong câu văn trên.
Văn học đã làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn, tạm quên những chuyện mưu sinh lầm lũi thường ngày để bay lên khỏi mặt đất như thế.
- Các biện pháp tu từ trong câu văn:
+ Nhân hoá: Văn học đã làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn.
+ Ẩn dụ: tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn, bay lên khỏi mặt đất
- Hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ: Nhấn mạnh sức tác động kì diệu của văn học tới tâm hồn con người, làm cho tâm hồn con người trở nên đẹp đẽ, trẻ trung, tươi mới, bay bổng.
- Các biện pháp tu từ trong câu văn:
+ Nhân hoá: Văn học đã làm cho tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn.
+ Ẩn dụ: tâm hồn con người tươi xanh lãng mạn, bay lên khỏi mặt đất
- Hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ: Nhấn mạnh sức tác động kì diệu của văn học tới tâm hồn con người, làm cho tâm hồn con người trở nên đẹp đẽ, trẻ trung, tươi mới, bay bổng.
Câu 5 [706224]: Từ đoạn trích, rút ra bài học về cách lựa chọn dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học.
Bài học về cách lựa chọn dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học: Dẫn chứng phong phú, đa dạng, gồm đủ:
- Văn học Việt Nam và văn học nước ngoài.
- Các bộ phận văn học dân gian, văn học viết (văn học trung đại, văn học hiện đại).
- Thuộc nhiều thể loại: tục ngữ, thơ, truyện.
- Văn học Việt Nam và văn học nước ngoài.
- Các bộ phận văn học dân gian, văn học viết (văn học trung đại, văn học hiện đại).
- Thuộc nhiều thể loại: tục ngữ, thơ, truyện.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706225]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa được gợi ra từ ý kiến ở phần Đọc hiểu: Văn học còn bồi đắp, nuôi dưỡng lòng yêu thương những thân phận bất hạnh, yết ớt trong cuộc đời bất công khốn khó.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa được gợi ra từ ý kiến ở phần Đọc hiểu: Văn học còn bồi đắp, nuôi dưỡng lòng yêu thương những thân phận bất hạnh, yết ớt trong cuộc đời bất công khốn khó.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa được gợi ra từ ý kiến ở phần Đọc hiểu: Văn học còn bồi đắp, nuôi dưỡng lòng yêu thương những thân phận bất hạnh, yết ớt trong cuộc đời bất công khốn khó có thể được triển khai theo hướng:
- Ý kiến khẳng định vai trò của văn học trong việc bồi dưỡng lòng nhân ái trong con người, kết nối con người với con người bằng tình cảm yêu thương chân thành - một khía cạnh vừa thuộc về bản chất, vừa thuộc về chức năng của văn học nghệ thuật (những vấn đề cốt lõi của lí luận văn học).
- Ý kiến khơi gợi nhiều ý nghĩa:
+ Tác phẩm văn học phải chứa đựng tinh thần nhân đạo, thấm đượm giá trị nhân văn. (Liên hệ các quan điểm sáng tác của Nam Cao: Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn.; của Thạch Lam: Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn.,...)
+ Nhà văn phải là người nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ (A. Sê-khốp).
+ Bạn đọc khi tiếp nhận tác phẩm văn học nên coi giá trị nhân đạo như một tiêu chí để đánh giá tác phẩm, đồng thời cũng cần chủ động, tích cực tiếp nhận những giá trị nhân văn từ văn bản.
(Lưu ý: Bổ sung dẫn chứng để hoàn thiện đoạn văn.)
- Ý kiến khẳng định vai trò của văn học trong việc bồi dưỡng lòng nhân ái trong con người, kết nối con người với con người bằng tình cảm yêu thương chân thành - một khía cạnh vừa thuộc về bản chất, vừa thuộc về chức năng của văn học nghệ thuật (những vấn đề cốt lõi của lí luận văn học).
- Ý kiến khơi gợi nhiều ý nghĩa:
+ Tác phẩm văn học phải chứa đựng tinh thần nhân đạo, thấm đượm giá trị nhân văn. (Liên hệ các quan điểm sáng tác của Nam Cao: Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn.; của Thạch Lam: Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn.,...)
+ Nhà văn phải là người nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ (A. Sê-khốp).
+ Bạn đọc khi tiếp nhận tác phẩm văn học nên coi giá trị nhân đạo như một tiêu chí để đánh giá tác phẩm, đồng thời cũng cần chủ động, tích cực tiếp nhận những giá trị nhân văn từ văn bản.
(Lưu ý: Bổ sung dẫn chứng để hoàn thiện đoạn văn.)
Câu 7 [706226]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về những đóng góp của tuổi trẻ hôm nay trước các vấn đề lớn lao của nhân loại (như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, chiến tranh...).
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về những đóng góp của tuổi trẻ hôm nay trước các vấn đề lớn lao của nhân loại (như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, chiến tranh...).
Bài văn trình bày suy nghĩ về những đóng góp của tuổi trẻ hôm nay trước các vấn đề lớn lao của nhân loại (như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, chiến tranh...) có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Thế giới không ngừng vận động, biến đổi và mang đến bao điều tốt đẹp cho con người nhưng cũng kéo theo rất nhiều bất ổn đòi hỏi sự chung tay, góp sức của từng cá nhân, đặc biệt là những người trẻ.
2. Thân bài
- Bức tranh toàn cảnh thế giới thế kỉ XXI: Bước sang thế kỉ XXI, nhân loại đạt được những bước tiến vô cùng lớn lao trong lĩnh vực khoa học công nghệ với thành tựu to lớn là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Song con người thời đại ngày nay cũng phải đối mặt với rất nhiều vấn đề nổi cộm:
+ Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu với sự gia tăng của các hiện tượng trái đất nóng lên, băng tan, nước biển dâng,... Biến đổi khí hậu toàn cầu hiện là thách thức an ninh phi truyền thống lớn nhất đối với thế giới, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của loài người.
+ Dịch bệnh bùng phát toàn cầu: Dịch bệnh Covid-19 là từ khóa của năm từ năm 2020 đến 2022; song không chỉ có vậy, trong 30 năm gần đây, thế giới cũng đã phải đối mặt với nhiều đại dịch, như HIV/AIDS, SARS, H5N1, H7N9, Ebola... Tần suất xuất hiện của đại dịch hiện nay là khoảng vài năm thay vì một vài thế kỉ như trước đây.
+ Các cuộc cạnh tranh về tài nguyên, như nước, lương thực, năng lượng,... là nguyên nhân trực tiếp của nhiều cuộc xung đột cục bộ và nguyên nhân sâu xa của xung đột địa - chính trị tại nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới (xung đột giữa Nga và Ucraina, xung đột Gaza giữa Israel và phong trào Hamas, Căng thẳng giữa Israel và Iran,...).
+ Vấn đề an ninh mạng tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát sinh những xung đột mới với nhiều hệ lụy bất ổn đối với các quốc gia (bùng phát các mạng lưới lừa đảo xuyên quốc gia,...).
+ Ảnh hưởng của trí tuệ nhân tạo (AI) tới đời sống con người, đặc biệt là đối với vấn đề việc làm của con người (gây nên tình trạng thất nghiệp),...
⟶ Các vấn đề toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp và tần suất ngày càng nhiều hơn; tác động sâu rộng mang tính xuyên quốc gia, vừa là mối đe dọa cấp bách, vừa mang tính lâu dài. Đặc biệt, tính phức tạp thể hiện ở chỗ, hầu hết các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống đều có sự đan xen chặt chẽ với nhau, trong mọi mặt của đời sống quan hệ quốc tế và liên quan mật thiết đến an ninh truyền thống, do đó, một vấn đề có thể làm trầm trọng thêm rất nhiều các vấn đề khác.
- Những đóng góp của tuổi trẻ hôm nay trước các vấn đề nổi cộm, lớn lao của nhân loại:
+ Tại sao lại nhấn mạnh, đề cao đóng góp của những người trẻ? - Vì người trẻ dồi dào về tâm - trí - lực; người trẻ là chủ nhân của tương lai, vấn đề của nhân loại hôm nay chính là hiện tại của người trẻ ngày mai;...
+ Nhận thức đúng đắn về các vấn đề nóng hổi, nổi cộm của nhân loại, thấu đáo nguyên nhân, diễn biến, cách thức hành động góp phần ngăn chặn,... các vấn đề đó; nhận thức đúng đắn về trách nhiệm cá nhân đối với các vấn đề toàn cầu;...
+ Hành động:
• Không ngừng học tập, rèn luyện để trở thành công dân toàn cầu với những những kiến thức và kĩ năng cơ bản như xử lí tình huống, tư duy phản biện, khả năng thích ứng nhanh chóng, chịu được áp lực lớn,...
• Tận dụng những cơ hội nhìn ra thế giới để có một bức tranh toàn cảnh về những vấn đề đang diễn ra, thay đổi tư duy còn bó hẹp và biết đồng cảm với khó khăn của những cộng đồng khác;...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức: Mỗi chúng ta là một công dân của một quốc gia song cũng là công dân trên thế giới này. Không ai trong chúng ta đứng ngoài bất kì một vấn đề nào của nhân loại.
- Hành động: Mọi đóng góp để giải quyết các vấn đề nổi cộm của nhân loại luôn có thể bắt đầu từ những việc nhỏ nhất như trồng một cây non, tắt một bóng điện,...
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Thế giới không ngừng vận động, biến đổi và mang đến bao điều tốt đẹp cho con người nhưng cũng kéo theo rất nhiều bất ổn đòi hỏi sự chung tay, góp sức của từng cá nhân, đặc biệt là những người trẻ.
2. Thân bài
- Bức tranh toàn cảnh thế giới thế kỉ XXI: Bước sang thế kỉ XXI, nhân loại đạt được những bước tiến vô cùng lớn lao trong lĩnh vực khoa học công nghệ với thành tựu to lớn là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Song con người thời đại ngày nay cũng phải đối mặt với rất nhiều vấn đề nổi cộm:
+ Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu với sự gia tăng của các hiện tượng trái đất nóng lên, băng tan, nước biển dâng,... Biến đổi khí hậu toàn cầu hiện là thách thức an ninh phi truyền thống lớn nhất đối với thế giới, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của loài người.
+ Dịch bệnh bùng phát toàn cầu: Dịch bệnh Covid-19 là từ khóa của năm từ năm 2020 đến 2022; song không chỉ có vậy, trong 30 năm gần đây, thế giới cũng đã phải đối mặt với nhiều đại dịch, như HIV/AIDS, SARS, H5N1, H7N9, Ebola... Tần suất xuất hiện của đại dịch hiện nay là khoảng vài năm thay vì một vài thế kỉ như trước đây.
+ Các cuộc cạnh tranh về tài nguyên, như nước, lương thực, năng lượng,... là nguyên nhân trực tiếp của nhiều cuộc xung đột cục bộ và nguyên nhân sâu xa của xung đột địa - chính trị tại nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới (xung đột giữa Nga và Ucraina, xung đột Gaza giữa Israel và phong trào Hamas, Căng thẳng giữa Israel và Iran,...).
+ Vấn đề an ninh mạng tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát sinh những xung đột mới với nhiều hệ lụy bất ổn đối với các quốc gia (bùng phát các mạng lưới lừa đảo xuyên quốc gia,...).
+ Ảnh hưởng của trí tuệ nhân tạo (AI) tới đời sống con người, đặc biệt là đối với vấn đề việc làm của con người (gây nên tình trạng thất nghiệp),...
⟶ Các vấn đề toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp và tần suất ngày càng nhiều hơn; tác động sâu rộng mang tính xuyên quốc gia, vừa là mối đe dọa cấp bách, vừa mang tính lâu dài. Đặc biệt, tính phức tạp thể hiện ở chỗ, hầu hết các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống đều có sự đan xen chặt chẽ với nhau, trong mọi mặt của đời sống quan hệ quốc tế và liên quan mật thiết đến an ninh truyền thống, do đó, một vấn đề có thể làm trầm trọng thêm rất nhiều các vấn đề khác.
- Những đóng góp của tuổi trẻ hôm nay trước các vấn đề nổi cộm, lớn lao của nhân loại:
+ Tại sao lại nhấn mạnh, đề cao đóng góp của những người trẻ? - Vì người trẻ dồi dào về tâm - trí - lực; người trẻ là chủ nhân của tương lai, vấn đề của nhân loại hôm nay chính là hiện tại của người trẻ ngày mai;...
+ Nhận thức đúng đắn về các vấn đề nóng hổi, nổi cộm của nhân loại, thấu đáo nguyên nhân, diễn biến, cách thức hành động góp phần ngăn chặn,... các vấn đề đó; nhận thức đúng đắn về trách nhiệm cá nhân đối với các vấn đề toàn cầu;...
+ Hành động:
• Không ngừng học tập, rèn luyện để trở thành công dân toàn cầu với những những kiến thức và kĩ năng cơ bản như xử lí tình huống, tư duy phản biện, khả năng thích ứng nhanh chóng, chịu được áp lực lớn,...
• Tận dụng những cơ hội nhìn ra thế giới để có một bức tranh toàn cảnh về những vấn đề đang diễn ra, thay đổi tư duy còn bó hẹp và biết đồng cảm với khó khăn của những cộng đồng khác;...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức: Mỗi chúng ta là một công dân của một quốc gia song cũng là công dân trên thế giới này. Không ai trong chúng ta đứng ngoài bất kì một vấn đề nào của nhân loại.
- Hành động: Mọi đóng góp để giải quyết các vấn đề nổi cộm của nhân loại luôn có thể bắt đầu từ những việc nhỏ nhất như trồng một cây non, tắt một bóng điện,...