I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Việc cho nhân vật sử dụng ngôn ngữ vô thức với mật độ dày đặc trong “Thoạt kì thủy” hay dù ít hơn trong “Kể xong rồi đi” cũng vẫn chính là một sự cách tân mà Nguyễn Bình Phương lựa chọn để kể chuyện và khám phá con người. Tính và Phong dưới ngôn ngữ vô thức của mình hiện lên dị biệt hẳn so với những kiểu nhân vật điển hình trong văn chương giai đoạn trước. Ngôn ngữ vô thức vừa là nền tảng để xây dựng sự khác lạ đó và cũng vừa là lối dẫn để độc giả hiểu nhiều hơn về nhân vật, theo cách khách quan nhất. Nếu không có lớp ngôn ngữ tưởng như vô nghĩa của Tính, tưởng như hời hợt và vô tri của Phong có thể chúng ta đã nhìn nhận Tính với Phong đơn thuần là một kẻ điên hay người hâm hấp - một cách đánh giá dễ dàng nhận thấy qua diện mạo và hành động. Khi được cung cấp những phát ngôn vô thức, các nhân vật này trở thành những người có - vấn - đề cần được tìm hiểu, không phải cần được thông cảm theo kiểu bị bệnh mà theo hướng đây mới là đặc trưng của nhân vật. Nguyễn Bình Phương đã luôn giữ một thái độ khách quan khi kể chuyện, tác giả không phê bình, không đánh giá cũng không hàm ẩn một thái độ gì trong từng câu chữ. Nguyễn Bình Phương đã để hoàn toàn nhân vật được tự do hiện lên với những đặc điểm riêng biệt của mình, tự do như những gì tồn tại trong thế giới của vô thức con người vậy. Kết hợp văn phong khách quan với hệ thống ngôn ngữ vô thức của nhân vật, “Thoạt kì thủy” và “Kể xong rồi đi” đã trở nên đa chiều hơn những văn bản dài hơn trăm trang. Văn bản đa chiều, tác phẩm đa chiều cũng thiết lập những cách tiếp cận đa chiều, mang nhiều gợi mở hơn một câu chuyện về những người bất bình thường ở những ngôi làng quen thuộc trong văn chương Nguyễn Bình Phương. Nguyễn Bình Phương đã khám phá con người ở những khía cạnh sâu nhất, để cho nhân vật hiện lên với đúng bản chất, không đánh giá tốt xấu mà chỉ đơn giản là con người đó như thế đó, con người đó có những mặt như thế đó. Đối với độc giả, cách tiếp cận con người của Nguyễn Bình Phương cũng vô hình tạo ra một sợi dây liên hệ: Liệu chúng ta có phần trăm khác thường như Tính, như Phong? Chúng ta đều có phần vô thức vậy có phải những điều sâu kín nhất vẫn chưa còn được khám phá? Chúng ta đã hiểu đúng về chúng ta chưa?... Những câu hỏi về bản thể đã được đặt ngược lại với chính độc giả khi đọc Nguyễn Bình Phương và lắng nghe những thanh âm vô thức từ nhân vật của Nguyễn Bình Phương.”
(Trích Ngôn ngữ vô thức và những tầng ẩn ức từ tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương - Lê Thị Thu Trang, theo baovannghe.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706232]: Vấn đề nghị luận của đoạn trích là gì?
Vấn đề nghị luận của đoạn trích: Ngôn ngữ vô thức của các nhân vật văn học.
Câu 2 [706233]: Người viết sử dụng dẫn chứng từ các sáng tác nào để minh hoạ cho vấn đề nghị luận?
Để minh hoạ cho vấn đề nghị luận, người viết đã sử dụng dẫn chứng từ các sáng tác Thoạt kì thuỷ Kể xong rồi đi.
Câu 3 [706234]: Nếu không có lớp ngôn ngữ tưởng như vô nghĩa của Tính, tưởng như hời hợt và vô tri của Phong có thể chúng ta đã nhìn nhận Tính với Phong đơn thuần là một kẻ điên hay người hâm hấp - một cách đánh giá dễ dàng nhận thấy qua diện mạo và hành động.
Nêu tác dụng của kiểu câu điều kiện - kết quả trong câu văn trên.
Nếu không có lớp ngôn ngữ tưởng như vô nghĩa của Tính, tưởng như hời hợt và vô tri của Phong có thể chúng ta đã nhìn nhận Tính với Phong đơn thuần là một kẻ điên hay người hâm hấp - một cách đánh giá dễ dàng nhận thấy qua diện mạo và hành động.
Tác dụng của kiểu câu điều kiện - kết quả trong câu văn trên: khẳng định, nhấn mạnh giá trị của kiểu ngôn ngữ vô thức của các nhân vật Tính, Phong trong việc khắc hoạ các nhân vật này; khẳng định một cách khắc hoạ nhân vật mới mẻ, đặc biệt trong truyện của Nguyễn Bình Phương.
Câu 4 [706235]: Liệu chúng ta có phần trăm khác thường như Tính, như Phong? Chúng ta đều có phần vô thức vậy có phải những điều sâu kín nhất vẫn chưa còn được khám phá? Chúng ta đã hiểu đúng về chúng ta chưa?...
Phân tích hiệu quả của hình thức câu hỏi được sử dụng trong những câu văn trên.
Liệu chúng ta có phần trăm khác thường như Tính, như Phong? Chúng ta đều có phần vô thức vậy có phải những điều sâu kín nhất vẫn chưa còn được khám phá? Chúng ta đã hiểu đúng về chúng ta chưa?...
Hình thức câu hỏi được sử dụng trong những câu văn trên có ý nghĩa liên hệ, kết nối tác phẩm văn học với con người, soi chiếu văn chương vào con người, vào cuộc đời; từ đó, khơi gợi sự tìm hiểu, khám phá con người (phần vô thức trong mỗi con người) qua tác phẩm văn chương.
Câu 5 [706236]: Nhận xét sự kết hợp giữa tính khẳng định, phủ định trong đoạn trích.
- Trong đoạn trích, sự kết hợp giữa tính khẳng định, phủ định được thể hiện ở cấp độ câu văn:
• Nguyễn Bình Phương đã luôn giữ một thái độ khách quan khi kể chuyện, tác giả không phê bình, không đánh giá cũng không hàm ẩn một thái độ gì trong từng câu chữ.
• Nguyễn Bình Phương đã khám phá con người ở những khía cạnh sâu nhất, để cho nhân vật hiện lên với đúng bản chất, không đánh giá tốt xấu mà chỉ đơn giản là con người đó như thế đó, con người đó có những mặt như thế đó.

- Sự kết hợp giữa tính khẳng định, phủ định trong đoạn trích chủ yếu tập trung tô đậm lối viết khách quan, trung tính của Nguyễn Bình Phương trong các sáng tác của ông, từ đó góp phần khái quát nên một nét đặc trưng trong đặc điểm sáng tác của nhà văn.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706237]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh “cỏ” trong bài thơ sau:

CỎ DẠI
(Xuân Quỳnh)

“Cỏ dại quen nắng mưa
Làm sao mà giết được
Tới mùa nước dâng
Cỏ thường ngập trước
Sau ngày nước rút
Cỏ mọc đầu tiên”

Câu thơ nào trong ý nghĩ vụt lên
Khi tôi bước giữa một vùng cỏ dại
Không nhà cửa, không bóng cây. Tìm lối
Cứ đường hào rẽ cỏ mà đi.

Người dân quân tì súng lắng nghe
Bài hát nói về khu vườn đầy trái
Anh bỗng nghĩ đến một vùng cỏ dại
Nỗi nhớ đầu anh nhớ quê anh

Mảnh đạn bom và chất lân tinh
Đã phá sạch không còn chi nữa
Chỉ có sắt chỉ còn có lửa
Và cuối cùng còn có đất mà thôi

Thù trong lòng và cây súng trên vai
Cùng đồng đội anh trở về làng cũ
Anh nhận thấy trước tiên là cỏ
Sự sống đầu anh gặp ở quê hương

Có một lần anh tìm đến bà con
Khi xúm xít quanh anh thăm hỏi
Giữa câu chuyện có điều này đau nhói:
- Đất quê mình cỏ đã mọc lên chưa?

Trong cuộc đời bình yên tựa nghìn xưa
Gần gũi nhất vẫn là cây lúa
Trưa nắng khát ước về vườn quả
Lúc xa nhà nhớ một dáng mây
Một dòng sông, ngọn núi, rừng cây
Một làn khói, một mùi hương trong gió...

Có mấy ai nhớ về ngọn cỏ
Mọc vô tình trên lối ta đi
Dẫu nhỏ nhoi không đáng nhớ làm chi
Không nghĩ đến nhưng mà vẫn có
Vĩnh Linh 1969
(Theo Xuân Quỳnh thơ và đời, NXB Văn hoá, 1993)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh “cỏ” trong bài thơ Cỏ dại (Xuân Quỳnh) có thể được triển khai theo hướng:
- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ với những đề tài nổi bật như phụ nữ, tình yêu, thiếu nhi và tiếng thơ chân thành, hồn hậu,...
- Cỏ dại là bài thơ xinh xắn được viết năm 1969 tại Vĩnh Linh, một huyện ven biển nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Trị - thời điểm, địa điểm ác liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ thể hiện những chiêm nghiệm giản dị mà sâu sắc của nhà thơ về loài cây bé nhỏ:
+ Trong bài thơ, “cỏ” xuất hiện:
• Trong tâm tư của nhân vật trữ tình “tôi” và trong cả ý nghĩ, sự tìm kiếm của anh dân quân.
• Gắn liền với mọi thời khắc: trong khoảnh khắc anh dân quân làm nhiệm vụ (Người dân quân tì súng lắng nghe (...) Anh bỗng nghĩ đến một vùng cỏ dại), trong ngày anh cùng đồng đội trở về quê hương (Thù trong lòng và cây súng trên vai/ Cùng đồng đội anh trở về làng cũ), trong lần anh đi thăm bà con (Có một lần anh tìm đến bà con).
• Gắn liền với mọi không gian: nơi thiếu vắng sự sống (tôi bước giữa một vùng cỏ dại/ Không nhà cửa, không bóng cây), nơi hoa trái xum xuê (Bài hát nói về khu vườn đầy trái/ Anh bỗng nghĩ đến một vùng cỏ dại).
⟶ Điều này mang đến cảm nhận “cỏ” xuất hiện, có mặt ở mọi lúc, mọi nơi.
+ “Cỏ” có sức sống mãnh liệt trong bom đạn (Làm sao mà giết được, Cỏ mọc đầu tiên, Sự sống đầu anh gặp ở quê hương); rậm rạp um tùm (vùng cỏ dại, rẽ cỏ mà đi).
+ “Cỏ” tồn tại bất chấp sự vô tình của con người (Có mấy ai nhớ về ngọn cỏ, Dẫu nhỏ nhoi không đáng nhớ làm chi/ Không nghĩ đến nhưng mà vẫn có).
+ “Cỏ” nghĩa tình: “cỏ” đánh thức nỗi nhớ quê trong người dân quân, là đề tài trong lời hỏi han đau nhói của những con người xa quê.
=> Hình ảnh “cỏ” trong bài thơ Cỏ dại (Xuân Quỳnh) là hình ảnh ẩn dụ cho con người nhỏ bé, bình dị, khiêm nhường nhưng có sức sống mãnh liệt và nghĩa tình, trung hậu trong cuộc đời.
Câu 7 [706238]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về lí tưởng sống của những người trẻ hôm nay.
Bài văn trình bày suy nghĩ về lí tưởng sống của những người trẻ hôm nay có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Belinsky từng nói: Tuổi trẻ không có lí tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời. Và những người trẻ chúng ta hôm nay đã có mặt trời cho riêng mình?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “lí tưởng”: mục đích cao cả, tốt đẹp mà con người luôn phấn đấu để đạt tới. Lí tưởng của con người thể hiện ở những khát vọng, khát khao vươn đến các giá trị chuẩn mực trong đời sống. Người mang trong mình lí tưởng sẽ có động cơ để sống và hoàn thiện mình.
- Bàn về lí tưởng sống của những người trẻ hôm nay:
+ Rất nhiều người trẻ hiện đại sống có lí tưởng và có lí tưởng cao đẹp:
+ Giá trị của lí tưởng sống đúng đắn đối với người trẻ: lí tưởng cao đẹp vừa là mục tiêu hướng tới và là động lực để người trẻ tiến lên đúng hướng.
(Dẫn chứng: Những tấm gương tuổi trẻ sống có lí tưởng:
• Malala Yousafzai, cô gái trẻ người Pakistan đã dũng cảm đấu tranh cho quyền được giáo dục của phụ nữ, dù phải đối mặt với nguy hiểm đến tính mạng.
• Greta Thunberg, cô bé người Thụy Điển với chiến dịch vận động về biến đổi khí hậu, đã trở thành biểu tượng toàn cầu về sự quan tâm và hành động vì môi trường.
• Ca sĩ Hà Anh Tuấn với những dự án xã hội, đặc biệt là “Forest in the Sky” - dự án trồng rừng gắn liền với lí tưởng bảo vệ môi trường sống.
+ Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận thanh niên không xác định được mục tiêu tốt đẹp cho cuộc đời mình. Vì mình hay vì người? Tự do cá nhân tuyệt đối hay giá trị gia đình truyền thống? Du học rồi ở lại hay quay về? Làm giàu càng nhanh càng tốt hay phụng sự xã hội?... Họ loay hoay tìm kiếm hoặc thả trôi mình trong những thứ vô bổ như trò chơi điện tử trực tuyến, mạng xã hội,... hoặc bi quan, hằn học với cuộc đời,...
- Để người trẻ hôm nay có lí tưởng:
+ Mỗi người trẻ cần dành thời gian để tìm hiểu bản thân, xác định đam mê và mục tiêu sống của mình, định hình lí tưởng sống (đóng góp cho cộng đồng, bảo vệ môi trường hay phát triển sự nghiệp,...). Cũng cần lưu ý lời khuyên của Lê-nin: Con người cần lí tưởng, nhưng cần lí tưởng phù hợp với mình chứ không phải là lí tưởng siêu nhiên.
+ Tích cực học hỏi, không chỉ trong lĩnh vực chuyên môn mà còn về các vấn đề xã hội, văn hóa, kinh tế để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về thế giới xung quanh. Từ đó, xây dựng được cho mình lí tưởng sống phù hợp.
+ Tham gia vào các tổ chức, cộng đồng có cùng mục tiêu và lí tưởng giúp người trẻ không chỉ mở rộng mạng lưới quan hệ mà còn tăng cường kĩ năng và kiến thức.
+ Can đảm để hành động và chấp nhận thách thức, sẵn sàng ra khỏi vùng an toàn, thử thách bản thân với những dự án, công việc mới để từng bước thực hiện lý tưởng của mình.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

Người trẻ cần xây dựng cho mình lí tưởng sống đẹp đẽ và nỗ lực hành động hết mình để hiện thực hoá lí tưởng ấy.
<*> Tham khảo bài viết:
BÀN VỀ CÂU NÓI CỦA NHÀ VĂN NGA, L. TÔN-XTÔI: LÍ TƯỞNG LÀ NGỌN ĐÈN CHỈ ĐƯỜNG...
Con tàu nào trên đại dương bao la đều cần một ngọn hải đăng soi chiếu để đi trong đêm tối. Cũng như vậy, cuộc sống của con người nào cũng cần sự soi rọi của lí tưởng. Bởi lẽ, Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống (Lép Tôn-xtôi).
Nói đến lí tưởng, chúng ta thường nghĩ tới mục đích cao cả, tốt đẹp ở mức độ hoàn hảo, hoàn thiện mà con người luôn phấn đấu để đạt tới, và trên thực tế rất khó đạt được. Lí tưởng của con người được thể hiện ở những khát vọng, khát khao vươn đến các giá trị chuẩn mực trong đời sống. Lí tưởng của người Việt Nam những năm chống Mĩ là khát vọng tự do cho miền Nam và thống nhất đất nước. Lí tưởng của con người hiện đại là chung tay xây dựng thế giới hoà bình, tiến bộ. Lí tưởng của một bạn học sinh trung học phổ thông là đỗ vào trường đại học mình mong muốn... Người mang trong mình lí tưởng sẽ có động cơ để sống và hoàn thiện mình. Vai trò vạch đường, dẫn đường chỉ hướng của lí tưởng được Lep Tôn-xtôi hết sức nhấn mạnh trong câu nói của mình. Lí tưởng được ví như ngọn đèn chỉ đường cho mỗi người trên hành trình sống. Ngọn đèn đó soi rõ đường đi cho con người, giúp con người không lạc lối. Không có lí tưởng, con người sẽ mò mẫm trong cuộc sống, sẽ không thể có cuộc sống đích thực. Khái niệm cuộc sống trong câu nói của Lep không đơn thuần là hiện thực đời sống với toàn bộ quá trình sống, hoạt động của một con người hay cả xã hội. Lep muốn nói đến cuộc sống có ý nghĩa, cuộc sống tươi đẹp, cuộc sống mà trong đó con người sống chứ không chỉ tồn tại. Cuộc sống đó chỉ có được khi con người có lí tưởng, có phương hướng kiên định. Như vậy, con người muốn có cuộc sống đích thực thì không thể không có lí tưởng. Nhận thức của Lep Tôn-xtôi về vai trò của lí tưởng trong cuộc sống hoàn toàn đúng đắn.
Thực tế cho thấy, lí tưởng bao giờ cũng là khởi nguồn của mọi sự thành công. Người có lí tưởng thường ít gặp thất bại. Bởi lẽ khi đã xác định được cho mình mục đích sống, khi biết mình cần gì, muốn gì, ngay lập chúng ta sẽ vạch ra được những kế hoạch hành động cụ thể. Và thường thì việc làm nào đã được lên kế hoạch chu đáo sẽ rất dễ thực thi. Trong mọi hoàn cảnh, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn kiên định lí tưởng cộng sản của Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lí do nhân dân, dân tộc Việt Nam có thể đánh bại những tên đế quốc sừng sỏ nhất thế giới, giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Khát vọng chiếm lĩnh tri thức nhân loại đã thôi thúc bao học sinh, sinh viên Việt Nam học tập hăng say, mang về cho đất nước bao giải thưởng quốc tế, vinh danh cho người Việt. Và cuộc sống mà họ đang chiếm lĩnh là cuộc sống tươi đẹp, đầy ý nghĩa.
Lí tưởng mang đến con người sự tự tin và chủ động trong cuộc sống. Người không có lí tưởng sẽ không thể lập trình cho cuộc đời mình. Bởi lẽ không có khát vọng, không tìm được mục đích, ý nghĩa sự sống, họ sẽ không có phương hướng, không tự lên kế hoạch cho cuộc đời. Điều đó cũng có nghĩa họ luôn bị động và không thể làm chủ cuộc sống của mình. Bạn sắp tròn mười tám tuổi, vậy thì hãy xem mình mong ước trở thành một con người như thế nào, mình cần gì trong tương lai. Lí tưởng của bạn nằm trong chính những suy nghĩ đó. Lắng nghe xem mình muốn gì, cần gì, khát khao điều gì, đó là cách để chúng ta trở thành người có lí tưởng.
Từ câu nói của Lep Tôn-xtôi, trước hết chúng ta phải nhận thức được vai trò định hướng quan trọng của lí tưởng trong cuộc sống con người. Nhưng điều quan trọng hơn là khi có lí tưởng, chúng ta phải hết sức nỗ lực để biến nó thành hiện thực trong đời sống. Đừng bao giờ để những mục đích lớn lao đó tù đọng mãi trong suy nghĩ của chúng ta. Hãy biết ước mơ và lên kế hoạch để thực thi chúng. Khi đó, chúng ta sẽ có Cuộc Sống tròn vẹn.
(Cô Dung Vũ)