I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Mùa xuân yếm thắm môi cười là tứ thơ nổi bật của mảng thơ đồng quê trong Thơ mới. Nó lưu giữ những nét đẹp văn hóa nghìn xưa. Đoàn Văn Cừ chấm phá giữa bức tranh Chợ tết đầy sắc màu ngộ nghĩnh một nét cười thùy mị: “Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ”. Giữa cái rộn ràng của sắc xuân ngày tết, nét môi cười cố giấu đi vẫn ngời lên bên màu yếm thắm, ngỡ như chìm khuất mà sáng bừng giữa cảnh quan văn hóa làng quê. Yếm là một hình tượng thẩm mĩ khơi gợi nhiều cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật xưa nay. Trong Thơ mới, ý nghĩa thẩm mĩ của biểu -tượng - rất - nữ này thay đổi qua cảm xúc, qua ngẫu hứng của nhà thơ. Bàng Bá Lân nồng nàn trong tiếng gọi quen thuộc của ca dao: “Hỡi cô yếm thắm hái dâu ơi”. Anh Thơ phối ghép những màu sắc tương phản làm nổi bật vẻ đẹp rạng ngời của thôn nữ ngày xưa: “Yếm hồng thôn nữ tươi đường lúa/ Chùa lợp ngàn hoa đại trắng tinh”. Bên cạnh nụ cười, dải yếm trở thành cầu nối giữa trái tim và trái tim, giữa cái đẹp hữu hình và cái đẹp vô hình. Trở lại với câu thơ “Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ” của Đoàn Văn Cừ, sắc thắm của yếm cứ rực lên thêm duyên nồng cho một nét môi e ấp thanh xuân. Nụ cười giấu đi mà sáng cả một góc hình. Đây là câu thơ tĩnh nhất trong bức tranh chợ tết động náo và nhiều màu sắc. Kể cả khi phiên chợ đã tàn thì nét môi lặng lẽ ấy vẫn đọng lại dư ba. Nụ cười đằm thắm điểm một nét duyên, như một điểm sáng thẩm mĩ của bài thơ. Nó sáng ngời cái cười tỏa nắng sau này trong thơ Hoàng Cầm: “Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” (“Bên kia sông Đuống”).
Lưu Trọng Lư lưu lại với thời gian một “Nét cười đen nhánh sau tay áo” với hình bóng mẹ trong hồi ức. Mẹ gắn liền với văn hóa Việt Nam. Mẹ cũng là hình ảnh xuyên suốt thi ca Việt. Trong nguồn cảm hứng bất tận đó, hình ảnh mẹ luôn gắn kết với lời ru. Mẹ - lời ru trở thành phổ biến, nhưng mẹ - nụ cười là hình ảnh hiếm trong thơ. Trước Lưu Trọng Lư, chưa có hình ảnh mẹ hồn hậu, chân quê mà lãng mạn đến vậy. Câu thơ tượng hình và tượng tạc cả tâm hồn. Âm thanh màu sắc tương ứng. “Đen nhánh”, “áo đỏ”, “tiếng gà trưa”, “nắng mới”... làm nên một hình ảnh me tôi tươi trẻ. Bài thơ “Nắng mới” nói về nỗi nhớ mẹ đẹp và lạ, nụ cười níu giữ hình bóng mẹ, níu giữ hồi ức về một thời thơ dại: “Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời/ Lúc người còn sống tôi lên mười/ Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội/ Áo đỏ người đưa trước giậu phơi”. Đã có bao nhiêu hình ảnh về mẹ, chảy thành một dòng thơ nối kết truyền thống và hiện đại, nhưng hình ảnh mẹ trong thơ Lưu Trọng Lư vẫn lan tỏa cảm xúc qua thời gian.”
“Mùa xuân yếm thắm môi cười là tứ thơ nổi bật của mảng thơ đồng quê trong Thơ mới. Nó lưu giữ những nét đẹp văn hóa nghìn xưa. Đoàn Văn Cừ chấm phá giữa bức tranh Chợ tết đầy sắc màu ngộ nghĩnh một nét cười thùy mị: “Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ”. Giữa cái rộn ràng của sắc xuân ngày tết, nét môi cười cố giấu đi vẫn ngời lên bên màu yếm thắm, ngỡ như chìm khuất mà sáng bừng giữa cảnh quan văn hóa làng quê. Yếm là một hình tượng thẩm mĩ khơi gợi nhiều cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật xưa nay. Trong Thơ mới, ý nghĩa thẩm mĩ của biểu -tượng - rất - nữ này thay đổi qua cảm xúc, qua ngẫu hứng của nhà thơ. Bàng Bá Lân nồng nàn trong tiếng gọi quen thuộc của ca dao: “Hỡi cô yếm thắm hái dâu ơi”. Anh Thơ phối ghép những màu sắc tương phản làm nổi bật vẻ đẹp rạng ngời của thôn nữ ngày xưa: “Yếm hồng thôn nữ tươi đường lúa/ Chùa lợp ngàn hoa đại trắng tinh”. Bên cạnh nụ cười, dải yếm trở thành cầu nối giữa trái tim và trái tim, giữa cái đẹp hữu hình và cái đẹp vô hình. Trở lại với câu thơ “Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ” của Đoàn Văn Cừ, sắc thắm của yếm cứ rực lên thêm duyên nồng cho một nét môi e ấp thanh xuân. Nụ cười giấu đi mà sáng cả một góc hình. Đây là câu thơ tĩnh nhất trong bức tranh chợ tết động náo và nhiều màu sắc. Kể cả khi phiên chợ đã tàn thì nét môi lặng lẽ ấy vẫn đọng lại dư ba. Nụ cười đằm thắm điểm một nét duyên, như một điểm sáng thẩm mĩ của bài thơ. Nó sáng ngời cái cười tỏa nắng sau này trong thơ Hoàng Cầm: “Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” (“Bên kia sông Đuống”).
Lưu Trọng Lư lưu lại với thời gian một “Nét cười đen nhánh sau tay áo” với hình bóng mẹ trong hồi ức. Mẹ gắn liền với văn hóa Việt Nam. Mẹ cũng là hình ảnh xuyên suốt thi ca Việt. Trong nguồn cảm hứng bất tận đó, hình ảnh mẹ luôn gắn kết với lời ru. Mẹ - lời ru trở thành phổ biến, nhưng mẹ - nụ cười là hình ảnh hiếm trong thơ. Trước Lưu Trọng Lư, chưa có hình ảnh mẹ hồn hậu, chân quê mà lãng mạn đến vậy. Câu thơ tượng hình và tượng tạc cả tâm hồn. Âm thanh màu sắc tương ứng. “Đen nhánh”, “áo đỏ”, “tiếng gà trưa”, “nắng mới”... làm nên một hình ảnh me tôi tươi trẻ. Bài thơ “Nắng mới” nói về nỗi nhớ mẹ đẹp và lạ, nụ cười níu giữ hình bóng mẹ, níu giữ hồi ức về một thời thơ dại: “Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời/ Lúc người còn sống tôi lên mười/ Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội/ Áo đỏ người đưa trước giậu phơi”. Đã có bao nhiêu hình ảnh về mẹ, chảy thành một dòng thơ nối kết truyền thống và hiện đại, nhưng hình ảnh mẹ trong thơ Lưu Trọng Lư vẫn lan tỏa cảm xúc qua thời gian.”
(Trích Mùa xuân, đi tìm nét môi cười trong Thơ mới - Lê Thị Hường, theo vannghequandoi.com.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706241]: Tìm câu văn nêu luận điểm của đoạn trích.
Câu văn nêu luận điểm của đoạn trích: Mùa xuân yếm thắm môi cười là tứ thơ nổi bật của mảng thơ đồng quê trong Thơ mới
Câu 2 [706242]: Trong đoạn trích, các dẫn chứng nào được sử dụng để minh hoạ cho luận điểm?
Trong đoạn trích, các dẫn chứng được sử dụng để minh hoạ cho luận điểm gồm các câu thơ: Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ (Đoàn Văn Cừ), Hỡi cô yếm thắm hái dâu ơi (Bàng Bá Lân), Yếm hồng thôn nữ tươi đường lúa/ Chùa lợp ngàn hoa đại trắng tinh (Anh Thơ), Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh (Hoàng Cầm), Nét cười đen nhánh sau tay áo (Lưu Trọng Lư).
Câu 3 [706243]: Nụ cười đằm thắm điểm một nét duyên, như một điểm sáng thẩm mĩ của bài thơ. Nó sáng ngời cái cười tỏa nắng sau này trong thơ Hoàng Cầm: “Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” (“Bên kia sông Đuống”).
Nêu tác dụng của thao tác lập luận so sánh được sử dụng trong đoạn văn trên.
Nêu tác dụng của thao tác lập luận so sánh được sử dụng trong đoạn văn trên.
Nụ cười đằm thắm điểm một nét duyên, như một điểm sáng thẩm mĩ của bài thơ. Nó sáng ngời cái cười tỏa nắng sau này trong thơ Hoàng Cầm: “Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” (“Bên kia sông Đuống”).
- Thao tác lập luận so sánh trong đoạn văn: Đối sánh hình ảnh nụ cười đằm thắm của cô yếm thắm trong câu thơ của Đoàn Văn Cừ với cái cười toả nắng trong thơ Hoàng Cầm sau này.
- Tác dụng của thao tác lập luận so sánh được sử dụng trong đoạn văn: Tô đậm vẻ đẹp riêng, nét độc đáo trong cách cảm nhận và thể hiện tiếp nối qua hình ảnh môi cười của một nhà thơ mới (Đoàn Văn Cừ) với một nhà thơ lãng mạn hiện đại sau này (Hoàng Cầm); từ đó khơi gợi cảm nhận về tài năng và cá tính sáng tạo của các nhà thơ khi họ cùng viết về một đề tài, chủ đề.
- Thao tác lập luận so sánh trong đoạn văn: Đối sánh hình ảnh nụ cười đằm thắm của cô yếm thắm trong câu thơ của Đoàn Văn Cừ với cái cười toả nắng trong thơ Hoàng Cầm sau này.
- Tác dụng của thao tác lập luận so sánh được sử dụng trong đoạn văn: Tô đậm vẻ đẹp riêng, nét độc đáo trong cách cảm nhận và thể hiện tiếp nối qua hình ảnh môi cười của một nhà thơ mới (Đoàn Văn Cừ) với một nhà thơ lãng mạn hiện đại sau này (Hoàng Cầm); từ đó khơi gợi cảm nhận về tài năng và cá tính sáng tạo của các nhà thơ khi họ cùng viết về một đề tài, chủ đề.
Câu 4 [706244]: Đây là câu thơ tĩnh nhất trong bức tranh chợ tết động náo và nhiều màu sắc.
Nêu ý nghĩa của ý kiến chủ quan được thể hiện trong câu văn trên.
Nêu ý nghĩa của ý kiến chủ quan được thể hiện trong câu văn trên.
Đây là câu thơ tĩnh nhất trong bức tranh chợ tết động náo và nhiều màu sắc.
Ý kiến chủ quan của người viết trước hết thể hiện ấn tượng chủ quan, rung cảm thẩm mĩ của người viết trước cái đẹp trong một câu thơ hay; từ đó khơi gợi trong người đọc cảm nhận thú vị về câu thơ của nhà thơ Đoàn Văn Cừ (sự đối lập giữa hai thái cực: cái tĩnh được gợi đến từ hình ảnh Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ >< cái động của bức tranh chợ tết là phát hiện có chiều sâu của người viết về câu thơ đặc sắc).
Ý kiến chủ quan của người viết trước hết thể hiện ấn tượng chủ quan, rung cảm thẩm mĩ của người viết trước cái đẹp trong một câu thơ hay; từ đó khơi gợi trong người đọc cảm nhận thú vị về câu thơ của nhà thơ Đoàn Văn Cừ (sự đối lập giữa hai thái cực: cái tĩnh được gợi đến từ hình ảnh Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ >< cái động của bức tranh chợ tết là phát hiện có chiều sâu của người viết về câu thơ đặc sắc).
Câu 5 [706245]: Từ đoạn trích, nêu một bài học kinh nghiệm anh/ chị nhận được khi viết bài văn nghị luận văn học.
Từ đoạn trích, thí sinh có thể nêu một bài học kinh nghiệm nhận được khi viết bài văn nghị luận văn học trong số các bài học sau:
- Lựa chọn cách thức trình bày và triển khai luận điểm phù hợp.
- Xây dựng một hệ thống lập luận chặt chẽ gồm đủ luận điểm, lí lẽ, bằng chứng, ý kiến.
- Dẫn chứng phong phú, đa dạng.
- Phân tích, bình luận có nhấn, có lướt.
- Kết hợp linh hoạt các thao tác lập luận phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, đối chiếu,...
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm,...
-...
- Lựa chọn cách thức trình bày và triển khai luận điểm phù hợp.
- Xây dựng một hệ thống lập luận chặt chẽ gồm đủ luận điểm, lí lẽ, bằng chứng, ý kiến.
- Dẫn chứng phong phú, đa dạng.
- Phân tích, bình luận có nhấn, có lướt.
- Kết hợp linh hoạt các thao tác lập luận phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, đối chiếu,...
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm,...
-...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706246]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh “mùa xuân xanh” trong bài thơ sau:
MÙA XUÂN XANH
(Nguyễn Bính)
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh
Tôi đợi người yêu đến tự tình
Khỏi luỹ tre làng tôi nhận thấy
Bắt đầu là cái thắt lưng xanh.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh “mùa xuân xanh” trong bài thơ sau:
MÙA XUÂN XANH
(Nguyễn Bính)
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh
Tôi đợi người yêu đến tự tình
Khỏi luỹ tre làng tôi nhận thấy
Bắt đầu là cái thắt lưng xanh.
(Theo Nguyễn Bính thơ và đời, NXB Văn học, 2003)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh “mùa xuân xanh” trong bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) có thể được triển khai theo hướng:
- Nguyễn Bính là một trong những cây bút xuất sắc của phong trào Thơ mới (1932 - 1945) với những vần thơ mộc mạc, giản dị, chân quê. Nhiều thi phẩm của thi sĩ đã đính ghim trong tâm trí bạn đọc: Tương tư, Mưa xuân, Lỡ bước sang ngang, Qua nhà,...
- Mùa xuân xanh là một bài thơ xinh xắn, vẻn vẹn tám dòng thơ và trước hết khắc hoạ rõ nét một “mùa xuân xanh”:
+ Mùa xuân là mùa khởi đầu của năm, mùa của lộc non lá nõn, của sự tươi mới, thanh tân. Đó là sự tri nhận bấy lâu nay của chúng ta về mùa này. Song, để thức mãi trong thơ ca một mùa xuân kì diệu, Nguyễn Bính đã tô cho bức tranh xuân của mình một sắc xanh ngút ngát, trải khắp không gian, thời gian: Mùa xuân là cả một mùa xanh. Nói cách khác, Nguyễn Bính định nghĩa mùa xuân bằng sắc xanh, một cách định nghĩa giản dị nhưng đầy ấn tượng.
+ Những dòng thơ sau là những nét vẽ rõ ràng hơn về cả một mùa xanh ấy: xanh của bầu trời trên cao (Giời ở trên cao), xanh trên lá cành (lá ở cành), xanh lúa, bạt ngàn lúa, ngút ngát lúa bởi cách tác giả nhân ba lên không gian cánh đồng (Lúa ở đồng tôi và lúa ở/ Đồng nàng và lúa ở đồng anh), xanh cỏ (Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh), xanh của luỹ tre. Nguyễn Bính liệt kê nhưng không đơn thuần gọi tên sự vật. Cái duyên của nhà thơ là kể mà lại gợi, gợi hình dung tưởng tượng về không gian thiên nhiên tràn đầy sắc xanh, từ cao xuống thấp, từ xa đến gần,...
Nhưng nếu chỉ như vậy thì khung cảnh thiên nhiên sẽ có phần rợn ngợp, Thử hình dung về một bức tranh chỉ có một sắc xanh (dù các điệu xanh khác nhau), bức tranh ấy sẽ đơn điệu, tẻ ngắt lắm. Tất nhiên, Nguyễn Bính không hoạ một bức tranh như thế. Trên nền xanh ấy bắt đầu xuất hiện con người, đầu tiên là “tôi” - nhân vật trữ tình, sau đó, phía xa xa, nàng xuất hiện. Và tuyệt diệu thay, nàng cũng xuất hiện với một cái thắt lưng xanh! Cũng là xanh đấy, nhưng cái thắt lưng xanh có lẽ là sắc xanh “tôi” mong đợi nhất. Nó là dấu hiệu của người yêu, là tín hiệu của tình yêu. Nó còn ngời lên một sắc xanh vô hình - sắc xanh của yêu đương tuổi trẻ.
- Như vậy, với bảy dòng thơ sau, Nguyễn Bính đã tuyệt đối đúng khi chứng minh Mùa xuân là cả một mùa xanh: xanh của thiên nhiên đất trời, xanh của lòng người. Mùa xuân xanh của thi sĩ chân quê bởi gieo vào lòng người đọc một niềm mến yêu, tình tứ trong trẻo lạ kì.
- Nguyễn Bính là một trong những cây bút xuất sắc của phong trào Thơ mới (1932 - 1945) với những vần thơ mộc mạc, giản dị, chân quê. Nhiều thi phẩm của thi sĩ đã đính ghim trong tâm trí bạn đọc: Tương tư, Mưa xuân, Lỡ bước sang ngang, Qua nhà,...
- Mùa xuân xanh là một bài thơ xinh xắn, vẻn vẹn tám dòng thơ và trước hết khắc hoạ rõ nét một “mùa xuân xanh”:
+ Mùa xuân là mùa khởi đầu của năm, mùa của lộc non lá nõn, của sự tươi mới, thanh tân. Đó là sự tri nhận bấy lâu nay của chúng ta về mùa này. Song, để thức mãi trong thơ ca một mùa xuân kì diệu, Nguyễn Bính đã tô cho bức tranh xuân của mình một sắc xanh ngút ngát, trải khắp không gian, thời gian: Mùa xuân là cả một mùa xanh. Nói cách khác, Nguyễn Bính định nghĩa mùa xuân bằng sắc xanh, một cách định nghĩa giản dị nhưng đầy ấn tượng.
+ Những dòng thơ sau là những nét vẽ rõ ràng hơn về cả một mùa xanh ấy: xanh của bầu trời trên cao (Giời ở trên cao), xanh trên lá cành (lá ở cành), xanh lúa, bạt ngàn lúa, ngút ngát lúa bởi cách tác giả nhân ba lên không gian cánh đồng (Lúa ở đồng tôi và lúa ở/ Đồng nàng và lúa ở đồng anh), xanh cỏ (Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh), xanh của luỹ tre. Nguyễn Bính liệt kê nhưng không đơn thuần gọi tên sự vật. Cái duyên của nhà thơ là kể mà lại gợi, gợi hình dung tưởng tượng về không gian thiên nhiên tràn đầy sắc xanh, từ cao xuống thấp, từ xa đến gần,...
Nhưng nếu chỉ như vậy thì khung cảnh thiên nhiên sẽ có phần rợn ngợp, Thử hình dung về một bức tranh chỉ có một sắc xanh (dù các điệu xanh khác nhau), bức tranh ấy sẽ đơn điệu, tẻ ngắt lắm. Tất nhiên, Nguyễn Bính không hoạ một bức tranh như thế. Trên nền xanh ấy bắt đầu xuất hiện con người, đầu tiên là “tôi” - nhân vật trữ tình, sau đó, phía xa xa, nàng xuất hiện. Và tuyệt diệu thay, nàng cũng xuất hiện với một cái thắt lưng xanh! Cũng là xanh đấy, nhưng cái thắt lưng xanh có lẽ là sắc xanh “tôi” mong đợi nhất. Nó là dấu hiệu của người yêu, là tín hiệu của tình yêu. Nó còn ngời lên một sắc xanh vô hình - sắc xanh của yêu đương tuổi trẻ.
- Như vậy, với bảy dòng thơ sau, Nguyễn Bính đã tuyệt đối đúng khi chứng minh Mùa xuân là cả một mùa xanh: xanh của thiên nhiên đất trời, xanh của lòng người. Mùa xuân xanh của thi sĩ chân quê bởi gieo vào lòng người đọc một niềm mến yêu, tình tứ trong trẻo lạ kì.
Câu 7 [706247]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự bình yên.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự bình yên.
Bài văn trình bày suy nghĩ về sự bình yên có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ:
Bình yên một thoáng cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đoá hoa ra chào
Bình yên để trăng cao...
Đó là những ca từ thật đẹp bắt đầu cho ca khúc Bình yên của nhạc sĩ Trần Hiếu. Tôi thường bật nghe ca khúc này những lúc cảm thấy chênh chao nhất trong cuộc sống. Và một đôi lúc nào đó, tôi đã từng tự hỏi mình: Bình yên có phải là cái đích cuối cùng mà chúng ta mong muốn trong cuộc đời?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “bình yên”: trạng thái bình lặng, an yên trong đời sống cũng như tâm hồn con người.
- Biểu hiện của sự bình yên:
+ Bình yên trong cuộc sống là bình an vô sự, không gặp phải những rủi ro, bất trắc, tai nạn. Một cuộc sống bình yên không lấy vật chất làm thước đo, không lấy mưu cầu danh lợi làm mục đích, không cố công đeo đuổi các vị trí xã hội,... nhưng cũng không thể chìm đắm trong nghèo khó, gieo neo. Cuộc sống bình yên là cuộc sống có sự cân bằng giữa các giá trị vật chất - tinh thần, trong đó không giá trị nào bị đẩy đến mức độ cực đoan.
+ Bình yên trong tâm hồn là trạng thái an nhiên, nhẹ nhõm, không bị vướng bận bởi bất cứ lo toan, nghĩ suy nào. Một tâm hồn bình yên sẽ không bị đắm chìm vào những sắc thái tình cảm, cảm xúc sôi nổi hay trĩu nặng. Cũng như cuộc sống bình yên, tâm hồn bình yên phải là sự quân bình, trung dung, hài hoà của những vui buồn, yêu ghét, hi vọng - thất vọng, sung sướng - khổ đau,... Song một tâm hồn ở trạng thái bình yên không phải vì thế mà phẳng lặng, nhạt nhẽo. Ngược lại, phải đạt đến một chiều sâu nhất định, tâm hồn ấy mới thực sự có được trạng thái tĩnh lặng, an yên, không bị bấn gợn bởi bất kì những xao động nào từ bên ngoài.
- Sự bình yên mang lại cho con người nhiều điều tốt đẹp:
+ Cuộc sống bình yên mang đến cho chúng ta sự ổn định để bằng lòng thụ hưởng hoặc khởi đầu cho những điều tốt đẹp hơn. Người có cuộc sống bình yên sẽ có yên tâm để tiếp tục thăng hoa, kiến tạo nên một cuộc sống đẹp đẽ hơn nữa.
+ Tâm hồn bình yên sẽ giúp mỗi người có thể lắng nhận sự sống, cảm nhận, chiêm nghiệm cuộc sống một cách sâu sắc hơn. Người có tâm hồn bình yên cũng là người có thể yêu thương người khác tự nhiên, thành thực. Họ là những nhân tố tích cực góp phần làm cho cuộc sống này tươi đẹp hơn.
- Để được bình yên trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn, mỗi chúng ta có thể:
+ Không ngừng nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn mình bằng những cuốn sách nhân văn, những bản nhạc nhẹ nhàng, những câu chuyện nhân ái, gần gũi thiên nhiên, trồng một cái cây, nuôi một con vật,... - làm những việc nhỏ bé, giản dị, đời thường như thế.
+ Chủ động lựa chọn một lối sống đẹp: đẹp trong suy nghĩ, đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong ứng xử với mọi người xung quanh.
+ Tin tưởng vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
+...
- Mở rộng:
+ Cần phân biệt bình yên với sự đơn điệu, tẻ nhạt trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn. Thực tế ranh giới giữa chúng khá rõ ràng song nếu ngộ nhận bình yên là đơn giản thì chúng ta rát dễ sa vào sự đơn điệu, tẻ ngắt.
+ Trong nhịp sống hiện đại, sự bình yên rất cần thiết để chúng ta chậm lại, cảm nhận cuộc sống. Nhưng cũng không nên để sự bình yên níu ta trở thành ỳ chệ, lạc hậu. Biết cân bằng giữa sự bình yên và nhịp sống sôi nổi của thời đại hiện đại cũng là một năng lực không dễ có.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
Bình yên là một giá trị sống tốt đẹp mà trong bất cứ thời đại nào con người ta cũng cần hướng tới.
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ:
Bình yên một thoáng cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đoá hoa ra chào
Bình yên để trăng cao...
Đó là những ca từ thật đẹp bắt đầu cho ca khúc Bình yên của nhạc sĩ Trần Hiếu. Tôi thường bật nghe ca khúc này những lúc cảm thấy chênh chao nhất trong cuộc sống. Và một đôi lúc nào đó, tôi đã từng tự hỏi mình: Bình yên có phải là cái đích cuối cùng mà chúng ta mong muốn trong cuộc đời?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “bình yên”: trạng thái bình lặng, an yên trong đời sống cũng như tâm hồn con người.
- Biểu hiện của sự bình yên:
+ Bình yên trong cuộc sống là bình an vô sự, không gặp phải những rủi ro, bất trắc, tai nạn. Một cuộc sống bình yên không lấy vật chất làm thước đo, không lấy mưu cầu danh lợi làm mục đích, không cố công đeo đuổi các vị trí xã hội,... nhưng cũng không thể chìm đắm trong nghèo khó, gieo neo. Cuộc sống bình yên là cuộc sống có sự cân bằng giữa các giá trị vật chất - tinh thần, trong đó không giá trị nào bị đẩy đến mức độ cực đoan.
+ Bình yên trong tâm hồn là trạng thái an nhiên, nhẹ nhõm, không bị vướng bận bởi bất cứ lo toan, nghĩ suy nào. Một tâm hồn bình yên sẽ không bị đắm chìm vào những sắc thái tình cảm, cảm xúc sôi nổi hay trĩu nặng. Cũng như cuộc sống bình yên, tâm hồn bình yên phải là sự quân bình, trung dung, hài hoà của những vui buồn, yêu ghét, hi vọng - thất vọng, sung sướng - khổ đau,... Song một tâm hồn ở trạng thái bình yên không phải vì thế mà phẳng lặng, nhạt nhẽo. Ngược lại, phải đạt đến một chiều sâu nhất định, tâm hồn ấy mới thực sự có được trạng thái tĩnh lặng, an yên, không bị bấn gợn bởi bất kì những xao động nào từ bên ngoài.
- Sự bình yên mang lại cho con người nhiều điều tốt đẹp:
+ Cuộc sống bình yên mang đến cho chúng ta sự ổn định để bằng lòng thụ hưởng hoặc khởi đầu cho những điều tốt đẹp hơn. Người có cuộc sống bình yên sẽ có yên tâm để tiếp tục thăng hoa, kiến tạo nên một cuộc sống đẹp đẽ hơn nữa.
+ Tâm hồn bình yên sẽ giúp mỗi người có thể lắng nhận sự sống, cảm nhận, chiêm nghiệm cuộc sống một cách sâu sắc hơn. Người có tâm hồn bình yên cũng là người có thể yêu thương người khác tự nhiên, thành thực. Họ là những nhân tố tích cực góp phần làm cho cuộc sống này tươi đẹp hơn.
- Để được bình yên trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn, mỗi chúng ta có thể:
+ Không ngừng nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn mình bằng những cuốn sách nhân văn, những bản nhạc nhẹ nhàng, những câu chuyện nhân ái, gần gũi thiên nhiên, trồng một cái cây, nuôi một con vật,... - làm những việc nhỏ bé, giản dị, đời thường như thế.
+ Chủ động lựa chọn một lối sống đẹp: đẹp trong suy nghĩ, đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong ứng xử với mọi người xung quanh.
+ Tin tưởng vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
+...
- Mở rộng:
+ Cần phân biệt bình yên với sự đơn điệu, tẻ nhạt trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn. Thực tế ranh giới giữa chúng khá rõ ràng song nếu ngộ nhận bình yên là đơn giản thì chúng ta rát dễ sa vào sự đơn điệu, tẻ ngắt.
+ Trong nhịp sống hiện đại, sự bình yên rất cần thiết để chúng ta chậm lại, cảm nhận cuộc sống. Nhưng cũng không nên để sự bình yên níu ta trở thành ỳ chệ, lạc hậu. Biết cân bằng giữa sự bình yên và nhịp sống sôi nổi của thời đại hiện đại cũng là một năng lực không dễ có.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
Bình yên là một giá trị sống tốt đẹp mà trong bất cứ thời đại nào con người ta cũng cần hướng tới.