Câu hỏi hướng dẫn đọc
- Phần (1): Từ một vài định nghĩa về thơ, tác giả dẫn dắt tới quan niệm về thơ của chính mình.
- Phần (2), (3), (4), (5): Trình bày quan niệm về thơ trên các yếu tố cốt lõi:
+ Thơ là tiếng lòng của tâm hồn (phần 2)
+ Một số đặc trưng khác của thơ: hình ảnh, tư tưởng, cảm xúc, cái thực,... (phần 3)
+ Ngôn ngữ thơ (phần 4)
+ Vấn đề thơ tự do, thơ không vần (phần 5)
- Các phần (2), (3), (4), (5) đã chính là những yếu tố đặc trưng, cơ bản nhất của thơ.
+ Thơ là những lời đẹp
+ Thơ là những đề tài “đẹp”
+ Thơ khác với các thể văn khác ở chỗ in sâu vào trí nhớ
- Đi liền với việc giới thiệu Nguyễn Đình Thi đã bác bỏ khía cạnh chưa đúng đắn, toàn diện của chính những quan niệm này. Từ đó, tác giả đặt vấn đề: Vì sao thơ có hiệu quả làm cho ta nhớ? Như vậy, mục đích của việc nhận xét một số quan niệm về thơ là khơi gợi, dẫn dắt để giới thiệu vấn đề nghị luận.
Các luận điểm thể hiện quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ:
- Thơ là biểu hiện tâm hồn con người (Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng?)
Khởi đầu một bài thơ, người viết phải có “rung động thơ”, sau đó mới “làm thơ”. Rung động thơ có được khi tâm hồn ra khỏi trạng thái bình thường; do có sự va chạm với thế giới bên ngoài, với thiên nhiên, với những người khác mà tâm hồn con người thức tỉnh, bật lên những tình ý mới mẻ. Còn làm thơ là thể hiện những rung động của tâm hồn bằng lời hoặc những dấu hiệu thay cho lời nói (tức là chữ). Những lời, những chữ ấy phải có sức mạnh truyền cảm tới người đọc thơ, khiến mọi sợi dây của tâm hồn rung lên.
- Một số yếu tố đặc trưng khác của thơ: hình ảnh, tư tưởng, cảm xúc, cái thực,...:
+ Hướng tới việc biểu hiện tâm hồn con người, hình ảnh của thơ dù là hình ảnh về sự vật, thì cũng không cốt ghi lại cái vẻ bề ngoài mà đã bao hàm một nhận thức, một thái độ tình cảm hoặc suy nghĩ.
+ Thơ gắn liền với sự suy nghĩ, thơ phải có tư tưởng, nhưng tư tưởng trong thơ cũng là tư tưởng - cảm xúc, thơ muốn lay động những chiều sâu của tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ.
+ Cảm xúc, tình cảm là yếu tố quan trọng bậc nhất mà thơ hướng tới. Nguyễn Đình Thi viết: Cảm xúc là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn.
+ Ngay cái thực trong thơ cũng là sự thành thực của cảm xúc, là biểu hiện một cách chân thật và sinh động những gì đang diễn ra trong tâm hồn, đó là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy.
Tóm lại, hình ảnh, tư tưởng, cảm xúc, cái thực của thơ đều nằm trong hệ quy chiếu của tâm
hồn con người.
- Ngôn ngữ thơ có những nét đặc biệt so với ngôn ngữ các thể loại văn học khác. Nếu ngôn ngữ trong các tác phẩm truyện, kí chủ yếu là ngôn ngữ tự sự, kể chuyện, ngôn ngữ trong các tác phẩm kịch chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại, thì ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt nhờ yếu tố nhịp điệu, như Nguyễn Đình Thi khẳng định: Cái kì diệu ấy của tiếng nói trong thơ, có lẽ chăng ta tìm nó trong nhịp điệu [...] một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn.
- Vấn đề thơ tự do, thơ không vần: Xuất phát từ sự đề cao nhịp điệu bên trong, nhịp điệu của tâm hồn, Nguyễn Đình Thi quan niệm không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần, mà chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ. Thời đại mới, tư tưởng, tình cảm mới, nội dung mới đòi hỏi một hình thức mới, điều quan trọng là dùng thơ tự do, thơ không vần, hay dùng bất cứ hình thức nào, miễn là thơ diễn tả được đúng tâm hồn con người mới ngày nay.
Những hình ảnh còn tươi nguyên, mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng. Vì nhà thơ nhìn bằng con mắt của người đầu tiên. Đó là những hình ảnh mới tinh, chưa có vết nhoà của thói quen, không bị rập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước. Mượn câu nói của một nhà văn Pháp, nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ nhất. Nhưng những hình ảnh mới lạ ấy đều ở trong đời thực, chúng ta đều thấy. Hình ảnh của thơ vừa làm ta ngạc nhiên, vừa đã quen với chúng ta tự bao giờ. Câu thơ đột ngột làm cho ta nhận thấy những cái gần gũi nhất với chúng ta. Trước kia, ta vẫn gặp mà không biết nhìn.
Trong đoạn văn trên, tác giả đã kết hợp nhiều thao tác nghị luận:
+ Phân tích: chỉ ra nguyên nhân của sự tươi nguyên, mới mẻ, lạ lùng của hình ảnh thơ (Vì nhà thơ nhìn bằng con mắt của người đầu tiên.)
+ Bình luận: đưa ra quan điểm, ý kiến về hình ảnh thơ (Những hình ảnh còn tươi nguyên, mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng.; Đó là những hình ảnh mới tinh, chưa có vết nhoà của thói quen, không bịrập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước.;...)
+ So sánh, liên tưởng: Mượn câu nói của một nhà văn Pháp, nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ nhất.
Theo tôi, quan điểm trên vừa có yếu tố xác đáng vừa có yếu tố có phần dễ dãi. Trong quan điểm này, tác giả đã thể hiện nhận thức đúng đắn về đặc trưng cốt lõi của thơ ca (diễn tả được đúng tâm hồn con người). Song nếu người làm thơ lại lựa chọn một hình thức thơ biểu đạt không phù hợp hoặc quá bí hiểm, tắc tị thì mối giao cảm giữa nhà thơ - bạn đọc khó có thể đạt đến mức độ cao nhất.
Văn bản cũng có những chỉ dẫn trực tiếp thú vị cho người đọc thơ, chẳng hạn: Ta nói truyền sang hình như người đọc chỉ đứng yên mà nhận. Nhưng kì thực, cái trạng thái tâm lí truyền sang ấy là người đọc tự tạo cho mình, khi nhìn những chữ, khi nghe những lời, khi mọi sợi dây của tâm hồn rung lên vì chạm thấy những hình ảnh, những ý nghĩ, những mong muốn, những tình cảm mà lời và chữ của bài thơ kéo theo đằng sau như vùng sáng xung quanh ngọn lửa.
- Đầu mối của thơ ca là cảm xúc. Nhà thơ viết thơ trước hết để thoả mãn nhu cầu bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình.
- Nhưng đó không thể là thứ cảm xúc trào bật ra khỏi trái tim người nghệ sĩ và tắc nghẹn trên trang giấy. Cảm xúc của nhà thơ sẽ qua con chữ mà lan truyền tới người đọc, để người đọc cộng cảm với thi nhân. Lúc đó, thơ ca trở thành cầu nối kết giao các tâm hồn đồng điệu với nhau.
(Lưu ý: Bổ sung dẫn chứng để hoàn thiện đoạn văn.)