Câu hỏi hướng dẫn đọc
Câu 1 [0]: Tóm tắt cốt truyện Lão Hạc.
Truyện kể về lão Hạc, một ông lão nông dân nghèo khổ, vợ mất sớm, lão chỉ còn một cậu con trai. Vì không có tiền cưới vợ, anh con trai lão Hạc phẫn chí xin đi làm đồn điền cao su. Lão Hạc ở nhà với con chó Vàng - con vật lão yêu quý, cưng chiều gọi là “cậu” - và trông coi mảnh vườn từ thời mồ ma vợ lão, vợ lão thắt lưng buộc bụng mua để dành cho con. Hằng ngày, lão làm thuê để kiếm ăn. Bao hoa lợi thu được từ vườn, lão để riêng ra, dự định đến lúc con lão về, lão sẽ dồn được trăm đồng. Nhưng chỉ sau một trận ốm, lão đã tiêu nhẵn số tiền đó.
Nhiều lần, lão Hạc toan bán cậu Vàng. Riêng chuyện này, lão đã nói với ông giáo - láng giềng thân thiết của lão - nhiều lần, khiến ông giáo chẳng mấy bận tâm. Nhưng rồi một hôm, lão Hạc sang thông báo với ông giáo rằng mình đã bán cậu Vàng. Lão hu hu khóc, đau khổ vì mình trót lừa... một con chó. Sau cùng, khi đã bình tĩnh lại, lão nhờ ông giáo giữ giúp ba sào vườn cho con trai lão và ba mươi đồng bạc để nhỡ lão có mệnh hệ gì thì ông giáo cùng làng xóm lo liệu giúp.
Những ngày sau đó, lão Hạc bòn được gì thì ăn nấy. Một lần, lão sang nhà Binh Tư xin bả chó. Ngỡ tưởng đường cùng, lão toan làm việc xấu nhưng hoá ra lão Hạc lại dùng bả chó để tự tử. Phút cuối cùng bên lão Hạc, ông giáo và Binh Tư đã hiểu vì đâu lão chết. Ông giáo thầm hứa sẽ cố giữ cho lão trọn vẹn mảnh vườn lão dành cho con.
Nhiều lần, lão Hạc toan bán cậu Vàng. Riêng chuyện này, lão đã nói với ông giáo - láng giềng thân thiết của lão - nhiều lần, khiến ông giáo chẳng mấy bận tâm. Nhưng rồi một hôm, lão Hạc sang thông báo với ông giáo rằng mình đã bán cậu Vàng. Lão hu hu khóc, đau khổ vì mình trót lừa... một con chó. Sau cùng, khi đã bình tĩnh lại, lão nhờ ông giáo giữ giúp ba sào vườn cho con trai lão và ba mươi đồng bạc để nhỡ lão có mệnh hệ gì thì ông giáo cùng làng xóm lo liệu giúp.
Những ngày sau đó, lão Hạc bòn được gì thì ăn nấy. Một lần, lão sang nhà Binh Tư xin bả chó. Ngỡ tưởng đường cùng, lão toan làm việc xấu nhưng hoá ra lão Hạc lại dùng bả chó để tự tử. Phút cuối cùng bên lão Hạc, ông giáo và Binh Tư đã hiểu vì đâu lão chết. Ông giáo thầm hứa sẽ cố giữ cho lão trọn vẹn mảnh vườn lão dành cho con.
Câu 2 [0]: Nêu một số nét tính cách nổi bật của nhân vật lão Hạc và cho biết:
a. Lão Hạc tiêu biểu cho tầng lớp nào trong xã hội đương thời?
b. Hoàn cảnh sống đã tác động như thế nào đến số phận, tính cách của nhân vật?
a. Lão Hạc tiêu biểu cho tầng lớp nào trong xã hội đương thời?
b. Hoàn cảnh sống đã tác động như thế nào đến số phận, tính cách của nhân vật?
- Một số nét tính cách nổi bật của nhân vật lão Hạc: hiền lành, chất phác, thật thà, nhân hậu, rất mực thương con, tự trọng,... Cụ thể:

- Sự tác động của hoàn cảnh sống đến số phận, tính cách của nhân vật lão Hạc:
+ Hoàn cảnh sống của lão Hạc: Là nông dân ở một vùng nông thôn nghèo, người làng xung quanh đều vất vả kiếm sống, giành giật nhau từng công việc, kiếm tiền bằng những nghề lương thiện lẫn bất lương; từng có một gia đình hạnh phúc, tôn trọng và yêu thương nhau (người vợ vất vả làm lụng mua được mảnh vườn cho con, anh con trai tôn trọng và nghe lời cha, lo lắng gửi lại tiền trước khi đi xa kiếm sống,...); vợ mất sớm, con đi xa, tuổi già neo đơn, chỉ còn một con chó bầu bạn.
+ Mối liên hệ giữa tính cách và hoàn cảnh: Hoàn cảnh gia đình khiến cho lão Hạc luôn muốn bảo vệ tâm nguyện của người vợ đã mất (giữ mảnh vườn cho con) và chăm lo cho đứa con độc nhất dù anh đã trưởng thành (lo lắng sắp xếp tương lai cho con); giữa làng xóm khốn khó, phức tạp, bon chen, lão Hạc luôn giữ tâm hồn lương thiện, trong sáng, lão tự trọng bao nhiêu thì cũng tôn trọng người khác bấy nhiêu (lão không muốn làm phiền ai và luôn nói về người khác bằng lời lẽ tôn trọng nhất có thể gọi là của lão có tí chút còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...).
⟶ Nhân vật lão Hạc là điển hình của tầng lớp nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945: nghèo khổ, khốn cùng, bị đẩy vào hoàn cảnh buộc phải lựa chọn giữa một bên là hi sinh nhân cách và đạp lên người khác để có miếng ăn mà sống và một bên là chết để dành sự sống cho gia đình, người thân và bảo toàn lòng tự trọng.

- Sự tác động của hoàn cảnh sống đến số phận, tính cách của nhân vật lão Hạc:
+ Hoàn cảnh sống của lão Hạc: Là nông dân ở một vùng nông thôn nghèo, người làng xung quanh đều vất vả kiếm sống, giành giật nhau từng công việc, kiếm tiền bằng những nghề lương thiện lẫn bất lương; từng có một gia đình hạnh phúc, tôn trọng và yêu thương nhau (người vợ vất vả làm lụng mua được mảnh vườn cho con, anh con trai tôn trọng và nghe lời cha, lo lắng gửi lại tiền trước khi đi xa kiếm sống,...); vợ mất sớm, con đi xa, tuổi già neo đơn, chỉ còn một con chó bầu bạn.
+ Mối liên hệ giữa tính cách và hoàn cảnh: Hoàn cảnh gia đình khiến cho lão Hạc luôn muốn bảo vệ tâm nguyện của người vợ đã mất (giữ mảnh vườn cho con) và chăm lo cho đứa con độc nhất dù anh đã trưởng thành (lo lắng sắp xếp tương lai cho con); giữa làng xóm khốn khó, phức tạp, bon chen, lão Hạc luôn giữ tâm hồn lương thiện, trong sáng, lão tự trọng bao nhiêu thì cũng tôn trọng người khác bấy nhiêu (lão không muốn làm phiền ai và luôn nói về người khác bằng lời lẽ tôn trọng nhất có thể gọi là của lão có tí chút còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...).
⟶ Nhân vật lão Hạc là điển hình của tầng lớp nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945: nghèo khổ, khốn cùng, bị đẩy vào hoàn cảnh buộc phải lựa chọn giữa một bên là hi sinh nhân cách và đạp lên người khác để có miếng ăn mà sống và một bên là chết để dành sự sống cho gia đình, người thân và bảo toàn lòng tự trọng.
Câu 3 [0]: Xác định ngôi kể, điểm nhìn và chỉ ra tác dụng của cách sử dụng ngôi kể, điểm nhìn đó trong văn bản.
- Truyện được kể từ ngôi kể thứ nhất (người kể chuyện xưng “tôi”) và qua điểm nhìn của ông giáo - nhân vật “tôi” - một người có học thức, chân thành, tốt bụng, rất gần gũi với lão Hạc.
- Tác dụng của việc lựa chọn điểm nhìn này:
+ Toàn bộ câu chuyện về cuộc đời lão Hạc hiện lên qua cái nhìn, cảm xúc và suy nghĩ của ông giáo, kể cả những hiểu lầm hoặc đánh giá lầm của chính bản thân ông giáo về lão Hạc một cách chân thực, sinh động như những gì “tôi” chứng kiến.
+ Đồng thời với việc kể chuyện, “tôi” có thể bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của mình về câu chuyện đang kể, về nhân vật đang kể. Theo đó, người đọc còn được chứng kiến hành trình nhận thức của nhân vật “tôi” - ông giáo - về lão Hạc:
Cuộc đời lão Hạc hiện lên trước mắt chúng ta qua lăng kính của ông giáo. Ông giáo là hàng xóm của lão Hạc, là người có học thức, hiểu biết, chân thành, tốt bụng và rất gần gũi với lão. Nhưng ông vẫn hiểu lầm về lão Hạc không chỉ một lần:
Thứ nhất, ông từng nghĩ Lão quý con chó Vàng của lão đã thấm vào đâu so với tôi quý năm quyển sách của tôi..., phải đến khi chứng kiến lão Hạc dằn vặt sau khi bán chó ông mới nhận ra Bây giờ thì tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa.
Thứ hai, ông từng nghĩ Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết. và phải đến khi chứng kiến cái chết đau đớn của lão Hạc ông mới nhận ra Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.
⟶ Vòng lặp hiểu lầm - nhận thức đúng đắn - hiểu lầm - nhận thức đúng đắn cho ta thấy việc hiểu một con người khó khăn đến mức nào.
Việc lựa chọn điểm nhìn ngôi thứ nhất với ông giáo là người kể chuyện cho ta thấy đây không chỉ đơn giản là câu chuyện về một cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện, mà còn là câu chuyện về hành trình gian nan để hiểu đúng về một con người.
- Tác dụng của việc lựa chọn điểm nhìn này:
+ Toàn bộ câu chuyện về cuộc đời lão Hạc hiện lên qua cái nhìn, cảm xúc và suy nghĩ của ông giáo, kể cả những hiểu lầm hoặc đánh giá lầm của chính bản thân ông giáo về lão Hạc một cách chân thực, sinh động như những gì “tôi” chứng kiến.
+ Đồng thời với việc kể chuyện, “tôi” có thể bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của mình về câu chuyện đang kể, về nhân vật đang kể. Theo đó, người đọc còn được chứng kiến hành trình nhận thức của nhân vật “tôi” - ông giáo - về lão Hạc:
Cuộc đời lão Hạc hiện lên trước mắt chúng ta qua lăng kính của ông giáo. Ông giáo là hàng xóm của lão Hạc, là người có học thức, hiểu biết, chân thành, tốt bụng và rất gần gũi với lão. Nhưng ông vẫn hiểu lầm về lão Hạc không chỉ một lần:
Thứ nhất, ông từng nghĩ Lão quý con chó Vàng của lão đã thấm vào đâu so với tôi quý năm quyển sách của tôi..., phải đến khi chứng kiến lão Hạc dằn vặt sau khi bán chó ông mới nhận ra Bây giờ thì tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa.
Thứ hai, ông từng nghĩ Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết. và phải đến khi chứng kiến cái chết đau đớn của lão Hạc ông mới nhận ra Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.
⟶ Vòng lặp hiểu lầm - nhận thức đúng đắn - hiểu lầm - nhận thức đúng đắn cho ta thấy việc hiểu một con người khó khăn đến mức nào.
Việc lựa chọn điểm nhìn ngôi thứ nhất với ông giáo là người kể chuyện cho ta thấy đây không chỉ đơn giản là câu chuyện về một cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện, mà còn là câu chuyện về hành trình gian nan để hiểu đúng về một con người.
Câu 4 [0]: Anh/Chị suy nghĩ gì về cái chết của lão Hạc? Vì sao một người gần gũi, thân tình với lão Hạc như nhân vật ông giáo mà vẫn có lúc không hiểu hoặc hiểu lầm lão Hạc?
- Cái chết của lão Hạc là cái chết thương tâm, thể hiện tính cuộc đời, số phận khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Song, từ cái chết của lão Hạc, chúng ta cũng thấy sáng ngời nhiều phẩm chất đẹp đẽ ở người nông dân: hiền lành, tự trọng, nhân hậu, vị tha,...
- Một người gần gũi, thân tình với lão Hạc như nhân vật ông giáo mà vẫn có lúc không hiểu hoặc hiểu lầm lão Hạc vì:
+ Chính ông giáo cũng khổ. Đúng như khi ông giáo thanh minh cho vợ mình: Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?
+ Lâu nay, ông giáo cũng chưa cố tìm mà hiểu họ. (Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương...)
- Một người gần gũi, thân tình với lão Hạc như nhân vật ông giáo mà vẫn có lúc không hiểu hoặc hiểu lầm lão Hạc vì:
+ Chính ông giáo cũng khổ. Đúng như khi ông giáo thanh minh cho vợ mình: Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?
+ Lâu nay, ông giáo cũng chưa cố tìm mà hiểu họ. (Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương...)
Câu 5 [0]: Đọc đoạn văn sau: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những có để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương..., cho biết:
a. Đoạn văn là lời của ai nói với ai, trong trường hợp nào và với mục đích gì?
b. Tinh thần cố tìm mà hiểu những người quanh ta có ý nghĩa, tác dụng gì đối với chính nhà văn Nam Cao trong trường hợp ông viết Lão Hạc?
a. Đoạn văn là lời của ai nói với ai, trong trường hợp nào và với mục đích gì?
b. Tinh thần cố tìm mà hiểu những người quanh ta có ý nghĩa, tác dụng gì đối với chính nhà văn Nam Cao trong trường hợp ông viết Lão Hạc?
Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những có để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương...
- Đoạn văn thể hiện quan niệm của ông giáo về cách để hiểu đúng, hiểu sâu về người khác. Theo ông giáo, để hiểu đúng, hiểu sâu về người khác, ta cần có cả sự độ lượng, cảm thông lẫn sự nỗ lực không ngừng. Việc nhận thức đúng đắn về một con người đòi hỏi ta phải “cố”, phải luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để thấu cảm cho tâm tư của họ và hơn nữa, phải luôn nhận thức lại, lật lại những gì mình đã biết về họ, vượt qua những thiên kiến có sẵn trong mình. Bởi con người là một thực thể không ngừng thay đổi nên chúng ta khó có thể có lời kết luận cuối cùng về một con người.
- Hành trình cố tìm của ông giáo để hiểu lão Hạc: Ông giáo đã không ngừng vượt qua những thiên kiến bản thân để cố gắng thấu hiểu cho lão Hạc. Ông đã vượt qua suy nghĩ chủ quan ban đầu của mình khi nghĩ con chó Vàng chỉ như một món tài sản, không so được với sách vở của ông, để thấu hiểu vì sao lão Hạc lại đau buồn khi phải bán chó. Nhưng cuối cùng, ông vẫn rơi vào sự hiểu lầm tai hại, chỉ vì vô tình chấp nhận cái nhìn hẹp hòi, thiên kiến của Binh Tư về lão Hạc.
- Đoạn văn thể hiện quan niệm của ông giáo về cách để hiểu đúng, hiểu sâu về người khác. Theo ông giáo, để hiểu đúng, hiểu sâu về người khác, ta cần có cả sự độ lượng, cảm thông lẫn sự nỗ lực không ngừng. Việc nhận thức đúng đắn về một con người đòi hỏi ta phải “cố”, phải luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để thấu cảm cho tâm tư của họ và hơn nữa, phải luôn nhận thức lại, lật lại những gì mình đã biết về họ, vượt qua những thiên kiến có sẵn trong mình. Bởi con người là một thực thể không ngừng thay đổi nên chúng ta khó có thể có lời kết luận cuối cùng về một con người.
- Hành trình cố tìm của ông giáo để hiểu lão Hạc: Ông giáo đã không ngừng vượt qua những thiên kiến bản thân để cố gắng thấu hiểu cho lão Hạc. Ông đã vượt qua suy nghĩ chủ quan ban đầu của mình khi nghĩ con chó Vàng chỉ như một món tài sản, không so được với sách vở của ông, để thấu hiểu vì sao lão Hạc lại đau buồn khi phải bán chó. Nhưng cuối cùng, ông vẫn rơi vào sự hiểu lầm tai hại, chỉ vì vô tình chấp nhận cái nhìn hẹp hòi, thiên kiến của Binh Tư về lão Hạc.
Câu 6 [0]: Đọc Lão Hạc, anh/chị nhận xét như thế nào về cuộc sống của người dân nghèo ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945?
Nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đang dần suy tàn, kiệt quệ, nông dân bị bần cùng hoá, gần như chỉ còn đường chết để bảo vệ chút thiện lương cuối cùng. Một số chi tiết điển hình cho đời sống người nông dân Việt Nam Cách mạng tháng Tám năm 1945 được đề cập trong tác phẩm: thanh niên nông thôn bỏ làng đi phu trong các đồn điền của Pháp (dù văn hoá Bắc Bộ vốn rất trọng việc gắn bó với quê hương làng xóm), khiến mô hình gia đình truyền thống dần rạn vỡ; các ngành nghề thủ công truyền thống dần mai một (làng lão Hạc bị mất vé sợi khiến nghề dệt suy tàn), thợ thủ công thất nghiệp, đời sống sa sút, khó khăn; làng quê tiêu điều do mất mùa, người nông dân không sống nổi trên mảnh đất của chính mình, họ phải tranh giành nhau từng công việc để kiếm sống.
Câu 7 [0]: Theo anh/chị, tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao được viết theo phong cách lãng mạn hay phong cách hiện thực? Căn cứ vào đâu để bạn khẳng định như vậy?
- Tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao được viết theo phong cách hiện thực.
- Căn cứ xác định phong cách:

- Căn cứ xác định phong cách:
