Câu hỏi hướng dẫn đọc
Câu 1 [589822]: Ai là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn? Lập sơ đồ về mối quan hệ giữa nhân vật trung tâm này với các nhân vật khác trong truyện.
Nhân vật trung tâm của truyện: người đàn bà hàng chài.
Sơ đồ mối quan hệ giữa nhân vật trung tâm với các nhân vật khác trong truyện:

Câu 2 [589823]: Câu chuyện được kể từ điểm nhìn của ai? Ý nghĩa của việc lựa chọn điểm nhìn này.
Câu chuyện được kể từ điểm nhìn của nhiếp ảnh gia Phùng (trong chiến tranh, Phùng từng là một chiến sĩ giải phóng).
Từ điểm nhìn này, Nguyễn Minh Châu có thể thể hiện nhận thức về vai trò, sứ mệnh của nghệ thuật và người nghệ sĩ với cuộc đời.
Từ điểm nhìn này, Nguyễn Minh Châu có thể thể hiện nhận thức về vai trò, sứ mệnh của nghệ thuật và người nghệ sĩ với cuộc đời.
Câu 3 [589824]: Hãy nêu và nhận xét sự biến đổi trong cảm nhận của nhân vật Phùng về gia đình người đàn bà hàng chài trong truyện.
Sự biến đổi trong cảm nhận của nhân vật Phùng về gia đình người đàn bà hàng chài trong truyện:
- Ban đầu: Phùng chỉ thấy gia đình người đàn bà đầy bất ổn, bạo lực: gã đàn ông tàn độc, vũ phu với những đòn đánh vợ không thương tiếc; thằng con vì bảo vệ mẹ mà đã đánh lại cha; người đàn bà cam chịu nhẫn nhục một cách khó hiểu,...
- Sau khi nghe hết những lời trải lòng của người đàn bà, Phùng đã nhận ra mọi thứ không phải như anh ta đã thấy: gia đình đó cũng có lúc hòa thuận, vui vẻ; gã chồng đánh vợ chỉ vì quá khổ sở, uất ức, không có cách nào giải toả; người đàn bà cam chịu, chấp nhận đòn roi vì muốn chia sẻ với chồng và việc bà ta có những lí do riêng để nhất định không thể bỏ chồng,...
- Ban đầu: Phùng chỉ thấy gia đình người đàn bà đầy bất ổn, bạo lực: gã đàn ông tàn độc, vũ phu với những đòn đánh vợ không thương tiếc; thằng con vì bảo vệ mẹ mà đã đánh lại cha; người đàn bà cam chịu nhẫn nhục một cách khó hiểu,...
- Sau khi nghe hết những lời trải lòng của người đàn bà, Phùng đã nhận ra mọi thứ không phải như anh ta đã thấy: gia đình đó cũng có lúc hòa thuận, vui vẻ; gã chồng đánh vợ chỉ vì quá khổ sở, uất ức, không có cách nào giải toả; người đàn bà cam chịu, chấp nhận đòn roi vì muốn chia sẻ với chồng và việc bà ta có những lí do riêng để nhất định không thể bỏ chồng,...
Câu 4 [589825]: Phân tích tính đa diện trong tính cách của người đàn bà hàng chài.
Tính đa diện trong tính cách của người đàn bà hàng chài:
- Nghèo khổ nhưng tự trọng, giàu tình yêu thương con
- Ít học mà sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
- Cam chịu, chấp nhận đòn roi vô lí như một cách để bao dung, vị tha với gã chồng của mình
- Nghèo khổ nhưng tự trọng, giàu tình yêu thương con
- Ít học mà sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
- Cam chịu, chấp nhận đòn roi vô lí như một cách để bao dung, vị tha với gã chồng của mình
Câu 5 [589826]: Chỉ ra tính đối thoại trong cái nhìn của người đàn bà hàng chài với cái nhìn của Phùng và Đẩu. Từ đó, nêu lên chủ đề của tác phẩm.
- Tính đối thoại trong cái nhìn của người đàn bà hàng chài với cái nhìn của Phùng và Đẩu được thể hiện rõ nét trong cuộc trò chuyện giữa họ về một số đối tượng:
+ Về công việc và cuộc sống của những người làm nghề chài lưới:
• Đẩu: “Vậy sao không lên bờ mà ở?”
• Người đàn bà: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó?”
+ Về gã đàn ông:
• Đẩu: “Cả nước không có một người chồng nào như hắn. (...) cái lão đàn ông vũ phu”, “man rợ, tàn bạo”,...
• Người đàn bà: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”, “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...”,...
+ Về chính người đàn bà:
• Phùng: một người đàn bà khốn khổ (...) Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn,...
• Người đàn bà: “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”,...
- Chủ đề của tác phẩm: Cách nhìn đa diện, nhiều chiều để tiệm cận bản chất cốt lõi của đối tượng.
+ Về công việc và cuộc sống của những người làm nghề chài lưới:
• Đẩu: “Vậy sao không lên bờ mà ở?”
• Người đàn bà: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó?”
+ Về gã đàn ông:
• Đẩu: “Cả nước không có một người chồng nào như hắn. (...) cái lão đàn ông vũ phu”, “man rợ, tàn bạo”,...
• Người đàn bà: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”, “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...”,...
+ Về chính người đàn bà:
• Phùng: một người đàn bà khốn khổ (...) Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn,...
• Người đàn bà: “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”,...
- Chủ đề của tác phẩm: Cách nhìn đa diện, nhiều chiều để tiệm cận bản chất cốt lõi của đối tượng.
Câu 6 [589827]: Hãy trình bày quan điểm của em về sự lựa chọn cách sống của người đàn bà hàng chài.
Học sinh có thể trình bày quan điểm về sự lựa chọn cách sống của người đàn bà hàng chài theo nhiều hướng, song cần theo tinh thần nhân văn. Chẳng hạn:
- Cách sống của người đàn bà hàng chài xuất phát từ sự hạn chế trong trình độ nhận thức và sự nghèo khổ trong cuộc sống của con người.
- Cách sống của người đàn bà có vẻ đáng thương, tội nghiệp nhưng lại thể hiện sâu sắc tấm lòng bao dung, vị tha, nhân hậu của nhân vật.
⟶ Cách sống đáng được trân trọng.
- Cách sống của người đàn bà hàng chài xuất phát từ sự hạn chế trong trình độ nhận thức và sự nghèo khổ trong cuộc sống của con người.
- Cách sống của người đàn bà có vẻ đáng thương, tội nghiệp nhưng lại thể hiện sâu sắc tấm lòng bao dung, vị tha, nhân hậu của nhân vật.
⟶ Cách sống đáng được trân trọng.
Bài tập viết
Câu 7 [589828]: Bài tập 1. Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng; từ đó, nhận xét thông điệp nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Bài viết cần bảo đảm các ý sau:
Bài văn phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng; từ đó, nhận xét thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu có thể được triển khai theo hướng:
a. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
b. Thân bài
* Giới thiệu khái quát về Nguyễn Minh Châu, về Chiếc thuyền ngoài xa và vấn đề nghị luận
* Giải quyết vấn đề nghị luận
** Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
*** Phát hiện thứ nhất của Phùng
- Phùng bất ngờ nhìn thấy cảnh tượng: một chiếc thuyền lưới vó đang từ từ đi vào bờ trong buổi bình minh, sau một đêm kéo lưới.
- Vẻ đẹp của cảnh tượng:
+ Bằng con mắt nhà nghề, Phùng đã nhận ra đây là một cảnh tượng “đắt” trời cho, một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ, cảnh tượng tuyệt mĩ.
+ Cảnh tượng Phùng bắt gặp: Khoảnh khắc đúng lúc mũi thuyền chạm vào bầu sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Trên thuyền lúc này còn là hình ảnh vài bóng người (lớn, trẻ con) ngồi im phăng phắc trên mui thuyền. Toàn bộ cảnh tượng này được Phùng nhìn qua những mắt lưới của mảnh lưới vó giăng qua hai gọng vó ở mũi thuyền. Cảnh tượng mang vẻ đẹp hài hoà, đơn giản và toàn bích.
• Hài hòa: hình ảnh, màu sắc, đường nét, chuyển động.
o Màu sắc: ở thời điểm chạng vạng lúc bình minh, khi mặt trời đang lên, trời chưa sáng hẳn, nếu nhìn từ xa thì cảnh chưa thực sự tỏ rõ; lúc này mới chỉ có ánh vàng của ban mai lẫn với tàn đêm chưa hết, chỉ có sắc hồng của những tia nắng đầu tiên chiếu xuyên qua màn sương mù trắng như sữa.
o Đường nét: đường nét sắc nhất, rõ nhất là đường nét - đường viền của con thuyền, của bóng người.
o Chuyển động: chuyển động từ từ, chậm khẽ của con thuyền đang dần tiến vào bờ phá.
o Hình ảnh: có sự tương giao, hài hoà cân xứng giữa hình ảnh của bầu trời - mặt biển, nền trời - con thuyền - mặt biển, thiên nhiên - con thuyền - con người, đôi gọng vó - mui thuyền - vài con người,...
• Đơn giản: Cảnh tượng một chiếc thuyền lưới vó của một gia đình hàng chài cập bờ sau một đêm kéo lưới là cảnh tượng quen thuộc/ thường nhật ở các làng chài.
• Bình yên, yên ả, ngay cả khi có sự chuyển động của con thuyền (động mà tĩnh).
⟶ Khung cảnh/ Cảnh tượng đẹp: hài hoà, giản dị, yên bình.
- Cảnh tượng ấy mang lại cho Phùng:
+ Cảm xúc: bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào - trạng thái xúc động cực đỉnh, hạnh phúc đến nghẹt.
+ Suy nghĩ: chợt nhận ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức
- Phùng ngỡ tưởng chính mình là người đầu tiên nhận ra chân lí của sự toàn thiện này:
• Suy nghĩ của Phùng là sự khẳng định về vai trò, sứ mệnh, giá trị của cái đẹp đích thực trong cuộc đời: Cái đẹp đích thực sẽ không chỉ mang đến những cảm xúc thẩm mĩ (cảm xúc về cái đẹp) mà còn góp phần làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch, thanh tịnh, đẹp đẽ hơn. Nghệ thuật đích thực sẽ thanh lọc tâm hồn con người.
• Chân lí nghệ thuật này đã từng được rất nhiều nhà văn nổi tiếng của thế giới và Việt Nam phát biểu hoặc thể hiện trong tác phẩm của mình:
o Đốt-xtôi-ép-xki: Cái đẹp cứu vớt con người.
o Nguyễn Tuân, trong Chữ người tử từ đã để những con chữ vuông, tươi tắn của Huấn Cao cứu rỗi linh hồn của viên quản ngục. Huấn Cao chấp nhận cho chữ - những con chữ rất quý để quản ngục treo trong nhà như một thứ báu vật trên đời - thực chất cũng là để thức tỉnh quản ngục. Bởi thế nên, cùng với việc trao những con chữ, Huấn Cao còn khuyên quản ngục nên thay chốn ở đi để giữ thiên lương cho lành vững.
o Thạch Lam: Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.
⟶ Không phải Phùng hay Nguyễn Minh Châu là người đầu tiên phát hiện ra chân lí nghệ thuật này. Song rõ ràng, suy nghĩ của Phùng đã khẳng định nhận thức đúng đắn về nghệ thuật đích thực: Nghệ thuật đích thực, nghệ thuật có giá trị phải là thứ nghệ thuật hướng tới cái Thiện, hướng tới thiên lương, hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc đời, làm cho tâm hồn con người trở nên thanh sạch, trong sạch.
+ Hành động: bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để thu vào chiếc máy ảnh “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình” chứng tỏ nghệ sĩ Phùng đang thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật.
⟶ Phát hiện thứ nhất: phát hiện về cái đẹp và vai trò của cái đẹp trong cuộc đời.
*** Phát hiện thứ hai của Phùng
- Phát hiện về một cảnh tượng xấu xí, đau đớn:
+ Từ chính con thuyền ngư phủ đẹp như mơ khi nãy bước ra hai con người khốn khổ:
• Người đàn bà: trạc ngoài bốn mươi tuổi; thân hình cao lớn, thô kệch; mặt rỗ, khuôn mặt mệt mỏi, thiếu ngủ; tấm lưng áo bạch phếch, rách rưới; nửa thân dưới ướt sũng. Các chi tiết gợi tả vẻ bề ngoài cho thấy cuộc đời, số phận lam lũ, cực khổ của một người phụ nữ lao động miền biển.
• Gã đàn ông: lưng to và cong như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Các chi tiết gợi hình dung về vẻ bề ngoài lam lũ, khốn khổ, hung dữ, độc ác.
⟶ Hình ảnh không còn vẻ đẹp đẽ, thơ mộng như khi nãy (lúc Phùng nhìn từ xa); mà trần trụi, xấu xí.
+ Cảnh tượng đau đớn:
• Gã đàn ông hùng hổ, mặt đỏ gay, rút chiếc thắt lưng của lính nguỵ - quật tới tấp vào lưng người đàn bàn, vừa đánh vừa nghiến hai hàm răng ken két - nguyền rủa: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
• Người đàn bà: cam chịu, nhẫn nhục, không hề kêu, không hề chống trả, không hề trốn chạy.
Cảnh tượng bạo lực đau đớn, trần trụi; kì lạ, đối lập gay gắt với cái đẹp tuyệt mĩ khi nãy Phùng chứng kiến và thu vào chiếc máy ảnh của mình.
• Thằng Phác, đứa con của hai con người khố khổ, lao đến như một mũi tên, giật chiếc thắt lưng của gã đàn ông và quật ngược lại vào khuôn ngực vạm vỡ, cháy nắng của cha nó.
Cảnh tượng thật đau lòng: con đánh cha. Dù vì bất cứ lí do nào, thằng Phác cũng đã sai khi đánh cha nó. Để bảo vệ mẹ, nó có thể dùng thân mình để che chắn cho mẹ, hoặc ôm lấy cha nó mà kìm cơn giận dữ của lão.
⟶ Tất cả những gì mà Phùng đã chứng kiến thực sự ngoài sức tưởng tượng của anh.
- Cảm xúc, suy nghĩ của Phùng:
+ Hết sức ngạc nhiên: kinh ngạc, cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
+ chạy nhào tới
+ Chắc chắn Phùng đã sốc. Vì:
• Anh ta đã từng là lính, từng chiến đấu chống lại cái ác (bè lũ xâm lược, bán nước) để giành lại bình yên cho nhân dân, cho đất nước. Song những gì Phùng vừa chứng kiến lại không hề bình yên.
• Với tư cách là một nghệ sĩ, yêu cái đẹp nhưng những gì Phùng vừa chứng kiến lại thật trần trụi, xấu xí.
Mới khi nãy, anh ta nghĩ cái đẹp chính là đạo đức, sứ mệnh của cái đẹp là cứu rỗi cuộc đời. Nhưng hiện thực anh ta vừa chứng kiến lại là cái xấu, cái ác.
** Nhận xét thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
- Thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
+ Cùng một đối tượng (chiếc thuyền) nhưng khoảng cách của điểm nhìn và góc nhìn khiến Phùng có những phát hiện khác nhau về nó.
• Nhìn từ xa, anh ta thấy đó là một chiếc thuyền ngư phủ đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Lúc này, gián cách cái nhìn của Phùng là màn sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu và và tấm lưới giăng trên hai gọng vó của mũi thuyền.
• Khi con thuyền đến gần hơn, vào bờ phá, từ con thuyền bước ra hai con người đi qua trước mặt Phùng, đứng gần với vị trí của Phùng, lúc này Phùng đã nhìn rất rõ dáng vẻ khốn khổ và cảnh tượng đau lòng từ họ.
Theo đó, nghệ sĩ chỉ có thể nhận chân, tiệm cận được với hiện thực của cuộc đời khi anh ta biết chủ động rút gần khoảng cách từ cái nhìn của anh ta tới hiện thực; chỉ có thể nhìn thấu được bản chất của cuộc đời khi khám phá từ nhiều phía, nhiều chiều.
+ Sứ mệnh của nghệ sĩ trong cuộc đời không chỉ là phản ánh sáng tạo cái đẹp mà còn phải là đi sâu, lặn sâu vào cuộc đời để phản ánh bản chất cốt lõi của nó, dù đó là hiện thực đau đớn, trần trụi. Bởi lẽ cuộc đời không chỉ có cái đẹp mà nó còn đầy rẫy cái xấu, cái ác.
- Thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu thật đúng đắn và hàm chứa nhiều giá trị:
+ Với Nguyễn Minh Châu, thông điệp nghệ thuật này là kim chỉ nam cho mọi sáng tác của ông.
+ Với nhiều nhà văn, nhà thơ, thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu cũng có giá trị định hướng, tác động tích cực.
+ Với người đọc, bài học chúng ta nhận được chính là cần có cách nhìn đúng đắn về mọi đối tượng.
* Nhận xét, đánh giá; mở rộng, nâng cao
- Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc một suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp.
- Thông điệp của nhà văn được thể hiện thành công bởi kết cấu truyện độc đáo, cách kể chuyện tài hoa.
c. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về nghệ sĩ Phùng.
Bài văn phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng; từ đó, nhận xét thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu có thể được triển khai theo hướng:
a. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
b. Thân bài
* Giới thiệu khái quát về Nguyễn Minh Châu, về Chiếc thuyền ngoài xa và vấn đề nghị luận
* Giải quyết vấn đề nghị luận
** Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
*** Phát hiện thứ nhất của Phùng
- Phùng bất ngờ nhìn thấy cảnh tượng: một chiếc thuyền lưới vó đang từ từ đi vào bờ trong buổi bình minh, sau một đêm kéo lưới.
- Vẻ đẹp của cảnh tượng:
+ Bằng con mắt nhà nghề, Phùng đã nhận ra đây là một cảnh tượng “đắt” trời cho, một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ, cảnh tượng tuyệt mĩ.
+ Cảnh tượng Phùng bắt gặp: Khoảnh khắc đúng lúc mũi thuyền chạm vào bầu sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Trên thuyền lúc này còn là hình ảnh vài bóng người (lớn, trẻ con) ngồi im phăng phắc trên mui thuyền. Toàn bộ cảnh tượng này được Phùng nhìn qua những mắt lưới của mảnh lưới vó giăng qua hai gọng vó ở mũi thuyền. Cảnh tượng mang vẻ đẹp hài hoà, đơn giản và toàn bích.
• Hài hòa: hình ảnh, màu sắc, đường nét, chuyển động.
o Màu sắc: ở thời điểm chạng vạng lúc bình minh, khi mặt trời đang lên, trời chưa sáng hẳn, nếu nhìn từ xa thì cảnh chưa thực sự tỏ rõ; lúc này mới chỉ có ánh vàng của ban mai lẫn với tàn đêm chưa hết, chỉ có sắc hồng của những tia nắng đầu tiên chiếu xuyên qua màn sương mù trắng như sữa.
o Đường nét: đường nét sắc nhất, rõ nhất là đường nét - đường viền của con thuyền, của bóng người.
o Chuyển động: chuyển động từ từ, chậm khẽ của con thuyền đang dần tiến vào bờ phá.
o Hình ảnh: có sự tương giao, hài hoà cân xứng giữa hình ảnh của bầu trời - mặt biển, nền trời - con thuyền - mặt biển, thiên nhiên - con thuyền - con người, đôi gọng vó - mui thuyền - vài con người,...
• Đơn giản: Cảnh tượng một chiếc thuyền lưới vó của một gia đình hàng chài cập bờ sau một đêm kéo lưới là cảnh tượng quen thuộc/ thường nhật ở các làng chài.
• Bình yên, yên ả, ngay cả khi có sự chuyển động của con thuyền (động mà tĩnh).
⟶ Khung cảnh/ Cảnh tượng đẹp: hài hoà, giản dị, yên bình.
- Cảnh tượng ấy mang lại cho Phùng:
+ Cảm xúc: bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào - trạng thái xúc động cực đỉnh, hạnh phúc đến nghẹt.
+ Suy nghĩ: chợt nhận ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức
- Phùng ngỡ tưởng chính mình là người đầu tiên nhận ra chân lí của sự toàn thiện này:
• Suy nghĩ của Phùng là sự khẳng định về vai trò, sứ mệnh, giá trị của cái đẹp đích thực trong cuộc đời: Cái đẹp đích thực sẽ không chỉ mang đến những cảm xúc thẩm mĩ (cảm xúc về cái đẹp) mà còn góp phần làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch, thanh tịnh, đẹp đẽ hơn. Nghệ thuật đích thực sẽ thanh lọc tâm hồn con người.
• Chân lí nghệ thuật này đã từng được rất nhiều nhà văn nổi tiếng của thế giới và Việt Nam phát biểu hoặc thể hiện trong tác phẩm của mình:
o Đốt-xtôi-ép-xki: Cái đẹp cứu vớt con người.
o Nguyễn Tuân, trong Chữ người tử từ đã để những con chữ vuông, tươi tắn của Huấn Cao cứu rỗi linh hồn của viên quản ngục. Huấn Cao chấp nhận cho chữ - những con chữ rất quý để quản ngục treo trong nhà như một thứ báu vật trên đời - thực chất cũng là để thức tỉnh quản ngục. Bởi thế nên, cùng với việc trao những con chữ, Huấn Cao còn khuyên quản ngục nên thay chốn ở đi để giữ thiên lương cho lành vững.
o Thạch Lam: Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.
⟶ Không phải Phùng hay Nguyễn Minh Châu là người đầu tiên phát hiện ra chân lí nghệ thuật này. Song rõ ràng, suy nghĩ của Phùng đã khẳng định nhận thức đúng đắn về nghệ thuật đích thực: Nghệ thuật đích thực, nghệ thuật có giá trị phải là thứ nghệ thuật hướng tới cái Thiện, hướng tới thiên lương, hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc đời, làm cho tâm hồn con người trở nên thanh sạch, trong sạch.
+ Hành động: bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để thu vào chiếc máy ảnh “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình” chứng tỏ nghệ sĩ Phùng đang thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật.
⟶ Phát hiện thứ nhất: phát hiện về cái đẹp và vai trò của cái đẹp trong cuộc đời.
*** Phát hiện thứ hai của Phùng
- Phát hiện về một cảnh tượng xấu xí, đau đớn:
+ Từ chính con thuyền ngư phủ đẹp như mơ khi nãy bước ra hai con người khốn khổ:
• Người đàn bà: trạc ngoài bốn mươi tuổi; thân hình cao lớn, thô kệch; mặt rỗ, khuôn mặt mệt mỏi, thiếu ngủ; tấm lưng áo bạch phếch, rách rưới; nửa thân dưới ướt sũng. Các chi tiết gợi tả vẻ bề ngoài cho thấy cuộc đời, số phận lam lũ, cực khổ của một người phụ nữ lao động miền biển.
• Gã đàn ông: lưng to và cong như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Các chi tiết gợi hình dung về vẻ bề ngoài lam lũ, khốn khổ, hung dữ, độc ác.
⟶ Hình ảnh không còn vẻ đẹp đẽ, thơ mộng như khi nãy (lúc Phùng nhìn từ xa); mà trần trụi, xấu xí.
+ Cảnh tượng đau đớn:
• Gã đàn ông hùng hổ, mặt đỏ gay, rút chiếc thắt lưng của lính nguỵ - quật tới tấp vào lưng người đàn bàn, vừa đánh vừa nghiến hai hàm răng ken két - nguyền rủa: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
• Người đàn bà: cam chịu, nhẫn nhục, không hề kêu, không hề chống trả, không hề trốn chạy.
Cảnh tượng bạo lực đau đớn, trần trụi; kì lạ, đối lập gay gắt với cái đẹp tuyệt mĩ khi nãy Phùng chứng kiến và thu vào chiếc máy ảnh của mình.
• Thằng Phác, đứa con của hai con người khố khổ, lao đến như một mũi tên, giật chiếc thắt lưng của gã đàn ông và quật ngược lại vào khuôn ngực vạm vỡ, cháy nắng của cha nó.
Cảnh tượng thật đau lòng: con đánh cha. Dù vì bất cứ lí do nào, thằng Phác cũng đã sai khi đánh cha nó. Để bảo vệ mẹ, nó có thể dùng thân mình để che chắn cho mẹ, hoặc ôm lấy cha nó mà kìm cơn giận dữ của lão.
⟶ Tất cả những gì mà Phùng đã chứng kiến thực sự ngoài sức tưởng tượng của anh.
- Cảm xúc, suy nghĩ của Phùng:
+ Hết sức ngạc nhiên: kinh ngạc, cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
+ chạy nhào tới
+ Chắc chắn Phùng đã sốc. Vì:
• Anh ta đã từng là lính, từng chiến đấu chống lại cái ác (bè lũ xâm lược, bán nước) để giành lại bình yên cho nhân dân, cho đất nước. Song những gì Phùng vừa chứng kiến lại không hề bình yên.
• Với tư cách là một nghệ sĩ, yêu cái đẹp nhưng những gì Phùng vừa chứng kiến lại thật trần trụi, xấu xí.
Mới khi nãy, anh ta nghĩ cái đẹp chính là đạo đức, sứ mệnh của cái đẹp là cứu rỗi cuộc đời. Nhưng hiện thực anh ta vừa chứng kiến lại là cái xấu, cái ác.
** Nhận xét thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
- Thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
+ Cùng một đối tượng (chiếc thuyền) nhưng khoảng cách của điểm nhìn và góc nhìn khiến Phùng có những phát hiện khác nhau về nó.
• Nhìn từ xa, anh ta thấy đó là một chiếc thuyền ngư phủ đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Lúc này, gián cách cái nhìn của Phùng là màn sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu và và tấm lưới giăng trên hai gọng vó của mũi thuyền.
• Khi con thuyền đến gần hơn, vào bờ phá, từ con thuyền bước ra hai con người đi qua trước mặt Phùng, đứng gần với vị trí của Phùng, lúc này Phùng đã nhìn rất rõ dáng vẻ khốn khổ và cảnh tượng đau lòng từ họ.
Theo đó, nghệ sĩ chỉ có thể nhận chân, tiệm cận được với hiện thực của cuộc đời khi anh ta biết chủ động rút gần khoảng cách từ cái nhìn của anh ta tới hiện thực; chỉ có thể nhìn thấu được bản chất của cuộc đời khi khám phá từ nhiều phía, nhiều chiều.
+ Sứ mệnh của nghệ sĩ trong cuộc đời không chỉ là phản ánh sáng tạo cái đẹp mà còn phải là đi sâu, lặn sâu vào cuộc đời để phản ánh bản chất cốt lõi của nó, dù đó là hiện thực đau đớn, trần trụi. Bởi lẽ cuộc đời không chỉ có cái đẹp mà nó còn đầy rẫy cái xấu, cái ác.
- Thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu thật đúng đắn và hàm chứa nhiều giá trị:
+ Với Nguyễn Minh Châu, thông điệp nghệ thuật này là kim chỉ nam cho mọi sáng tác của ông.
+ Với nhiều nhà văn, nhà thơ, thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu cũng có giá trị định hướng, tác động tích cực.
+ Với người đọc, bài học chúng ta nhận được chính là cần có cách nhìn đúng đắn về mọi đối tượng.
* Nhận xét, đánh giá; mở rộng, nâng cao
- Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc một suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp.
- Thông điệp của nhà văn được thể hiện thành công bởi kết cấu truyện độc đáo, cách kể chuyện tài hoa.
c. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về nghệ sĩ Phùng.
Câu 8 [589829]: Bài tập 2. Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. ... trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên; từ đó, nhận xét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. ... trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên; từ đó, nhận xét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu.
Bài viết cần bảo đảm các ý sau:
Bài văn cảm nhận về hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích; từ đó, nhận xét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu có thể được triển khai theo hướng:
a. Mở bài
Ví dụ:
Trong cuốn Đa-ghét-xtan của tôi, Ra-xun Gam-za-tốp từng viết:
Đừng nói: Trao cho tôi đề tài
Hãy nói: Trao cho tôi đôi mắt
Thực vậy, vấn đề cốt lõi đối với người nghệ sĩ thực ra không phải là phạm vi đời sống mà anh ta khám phá mà là ở cái nhìn, cách nhìn của chính anh ta đối với hiện thực đời sống đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, thông qua hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong cuộc gặp gỡ với chánh án Đẩu và nhiếp ảnh gia Phùng, Nguyễn Minh Châu đã mang đến người đọc một - cách - nhìn - nhận về con người.
b. Thân bài
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Tác giả Nguyễn Minh Châu:
+ Vị trí: Là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
+ Đặc điểm sáng tác:
• Trước năm 1975: Nguyễn Minh Châu chủ yếu sáng tác ở mảng đề tài người lính, chiến tranh. Cảm hứng sáng tác của nhà văn chủ yếu là cảm hứng anh hùng, ngợi ca những tấm gương chiến đấu, hi sinh trong chiến tranh, đậm chất sử thi lãng mạn.
• Sau năm 1975: Một mặt, nhà văn tiếp tục viết về đề tài người lính, song ông chủ yếu tập trung viết về nỗi đau của con người thời hậu chiến. Mặt khác, tác giả đi sâu khai thác những vấn đề nổi cộm, nhức nhối của thế sự và đời tư con người. Qua đó, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sâu sắc những băn khoăn, trăn trở, những suy tư, chiêm nghiệm của mình về cuộc đời, về con người.
- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa:
+ Vị trí: Cùng với Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra,... Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác vô cùng đặc sắc của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sau năm 1975.
+ Hoàn cảnh sáng tác:
• Truyện được hoàn thành năm 1983, thời điểm này, đất nước vẫn đang duy trì nền kinh tế bao cấp với rất nhiều bất cập, đời sống người dân rất khó khăn.
• Trước tình hình đó, yêu cầu đổi mới được đặt ra như một nhiệm cấp bách phải được thực hiện ngay để giải quyết những hệ luỵ từ việc duy trì nền kinh tế bao cấp. Theo đó, văn học, một lĩnh vực của văn hoá, cũng buộc phải thay đổi để phù hợp với bối cảnh xã hội.
Trong hoàn cảnh đó, Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, thể hiện rất rõ tư duy đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
- Đoạn trích: nằm ở nửa sau của truyện ngắn, tập trung khắc hoạ hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài.
* Giải quyết vấn đề nghị luận
** Cảm nhận về hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích
- Sơ lược về bối cảnh xuất hiện nhân vật trong đoạn trích: Người đàn bà xuất hiện trong cuộc trò chuyện với Phùng và Đẩu ở toà án huyện, nơi Đẩu làm chánh án, cũng là nơi Phùng đang lưu lại để điều trị vết thương trong cuộc ẩu đả với gã đàn ông vũ phu.
- Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích: Nhân vật được Nguyễn Minh Châu tập trung khắc họa thông qua lời nói, thông qua cuộc trò chuyện với Phùng và Đẩu. Qua đó, người đàn bà đã bộc lộ nhiều đặc điểm (phẩm chất, tính cách) của mình.
+ Lòng bao dung, nhân hậu khi nói về gã chồng:
• Dù là nạn nhân thường xuyên của nạn bạo hành từ gã chồng vũ phu, song người đàn bà vẫn chưa khi nào quên được hình ảnh của gã chồng thời trẻ (“Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.”).
• Bà ta lí giải nguyên do khiến gã chồng trở nên tàn độc, tha hoá là vì trước những áp lực của cuộc sống khó khăn, gã đàn ông này lại không biết uống rượu để giải toả những uất ức, bức bách trong đời sống. Gã ta đánh vợ như là một cách để trút giận, để giải toả những uất ức, khổ sở, bức bối đó. (“Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu...”).
• Khi chia sẻ với Phùng và Đẩu về câu chuyện gia đình mình, người đàn bà không đổ hết trách nhiệm lên chồng. Hai lần trong đoạn trích người đàn bà đưa ra những lí do khác để “giảm nhẹ” tội cho chồng mình (“Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”).
Việc người đàn bà tự nhận trách nhiệm chính, tự nhận lỗi chính thuộc về mình còn cho thấy lòng tự trọng rất đáng quý ở một người phụ nữ lao động nghèo.
• Sẵn sàng biến mình thành “tấm bia” để gã chồng lên đạn bắn mỗi khi gã uất ức, khổ sở.
+ Thương con:
• Khi chấp nhận để chồng đánh như một cách để gã giải toả những uất ức, khổ sở, người đàn bà đã xin chồng đưa lên bờ mà đánh. Chi tiết cho thấy tình yêu thương, sự lo lắng rất mực của người mẹ khốn khổ đối với các con. Bà ta không muốn các con bị tổn thương về tâm hồn khi chứng kiến cảnh bố đánh mẹ tàn độc như vậy.
• Người đàn bà nhất định không chịu bỏ chồng vì bà ta cần gã chồng vũ phu ấy chung lưng đấu cật, cùng nhau làm lụng để nuôi đàn con trên dưới chục đứa.
• Nhận thức đúng đắn về thiên chức của người mẹ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con”. Đây là nhận thức mang tính bản năng chứ không phải do được học hành, nhưng chính bởi vậy mà nhận thức ấy lại rất sâu sắc.
• Khi được hỏi về giây phút vui nhất trong cuộc đời, người đàn bà đã trả lời ngay: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Câu nói của người mẹ thực đáng thương bởi lẽ niềm hạnh phúc cũng chính là niềm mong mỏi đau đáu suốt cuộc đời của người đàn bà này không phải là điều gì quá lớn lao mà chính là một điều hết sức nhỏ nhoi, giản dị. Song, không vì mong ước, niềm vui quá giản dị mà người đọc lại không cảm nhận được sự vĩ đại trong tình yêu thương con của người mẹ nghèo khổ.
- Sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời:
+ Để khắc hoạ sự sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã đối lập vẻ bề ngoài với những phẩm chất tốt đẹp trong chính nhân vật. Nhà văn để người đọc có ấn tượng sâu sắc về vẻ bề ngoài đáng thương, tội nghiệp của người đàn bà:
• Vẻ bề ngoài: xấu xí (mặt rỗ, gương mặt lúc nào cũng mệt mỏi do thiếu ngủ, quần áo toàn những miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng).
• Dáng điệu: lúng túng, đầy sợ sệt.
• Đáng thương, cam chịu một cách ngu ngốc: chấp nhận để chồng đánh ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
+ Sự sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà chỉ được bộc lộ trong cuộc trò chuyện giữa bà ta với Phùng và Đẩu. Qua những điều mà người đàn bà giãi bày, chia sẻ, Phùng, Đẩu và cả người đọc mới vỡ lẽ về những lí do khiến người đàn bà không thể bỏ chồng:
• Gia đình người đàn bà làm công việc chài lưới. Cuộc sống của họ quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển. Mà hiển nhiên, không phải lúc nào sóng cũng yên biển cũng lặng, cũng có lúc biển động, sóng dữ. Những lúc như thế, bất cứ con thuyền nào cũng cần có một gã đàn ông khoẻ mạnh làm trụ cột để chèo chống con thuyền khi phong ba bão táp.
• Người đàn bà này có cả chục đứa con, riêng mình bà ta không thể một mình nuôi con được. Người đàn bà này không thuộc tuýp có thể ruồng rẫy chồng con, ruồng rẫy cuộc sống nghèo khổ để đi tìm vui, tìm ấm no, hạnh phúc cho riêng mình. Do đó, bà ta luôn cần gã chồng - dù đó là gã đàn ông tàn độc - cùng làm lụng, “chung lưng đấu cật” để nuôi đàn con.
• Khi lí giải nguyên nhân dẫn đến thói bạo lực của gã chồng, người đàn bà không tìm lỗi ở gã đàn ông mà lại xuất phát từ nguyên nhân chủ quan (từ chính mình) và khách quan (từ hoàn cảnh sống) để lí giải. Theo đó, bà ta cho rằng lỗi chính là do “đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá” và khách quan là do thuyền chật, cuộc sống quá khó khăn (có những tháng biển động, cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối).
• Một trong những lí do nữa khiến người đàn bà không thể bỏ chồng là bởi với bà ta, việc gã đàn ông đánh vợ chỉ là hiện tượng, không phải là bản chất; không phải lúc nào gia đình bà ta cũng lục đục, mà “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”. Với chi tiết này, đồng thời với việc cảm nhận về sự sắc sảo, thấu suốt lẽ đời, người đọc cũng có thể cảm nhận thêm một nét đẹp khác trong hình tượng nhân vật này: luôn biết trân trọng những niềm vui nhỏ bé của cuộc đời, luôn biết chắt chiu những giọt hạnh phúc hiếm hoi của cuộc đời làm động lực sống cho mình.
Xét về “lượng”, trong khi Phùng và Đẩu chỉ vin vào một lí do duy nhất là sự tàn độc của gã đàn ông để thuyết phục người đàn bà bỏ chồng thì chính người đàn bà ấy lại viện dẫn được hơn một lí do/ nhiều lí do để thuyết phục ngược lại Phùng và Đẩu.
Xét từ “chất”, trong khi Phùng và Đẩu chỉ nhìn ở hiện tượng và nhìn bằng cái nhìn đầy định kiến về gã đàn ông thì người đàn bà lại nhìn bằng cái nhìn của kẻ trong cuộc, nhìn thấu vào bản chất của sự việc, của con người.
+ Không chỉ thuyết phục Phùng và Đẩu bằng những lí do từ chính góc nhìn của người trong cuộc, qua đoạn trích, người đọc còn nhận thấy có sự khác biệt trong cái nhìn và cách nhìn của người đàn bà với cái nhìn, cách nhìn của Phùng và Đẩu về công việc chài lưới, về gã đàn ông và về chính cuộc đời của người đàn bà.
• Về công việc chài lưới:
o Đẩu hỏi người đàn bà: “Vậy sao không lên bờ mà ở?”. Khi hỏi người đàn bà câu này, chứng tỏ Đẩu không hiểu gì về công việc chài lưới của những người dân hàng chài.
o Người đàn bà: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? (...) cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”. Là người trong cuộc, là người sống bằng nghề chài lưới, có những trải nghiệm thực tế nên người đàn bà đã lí giải thuyết phục nguyên do vì sao họ không thể sống trên bờ mà phải chấp nhận chen chúc trên con thuyền chật chội.
• Về gã đàn ông:
o Phùng hỏi người đàn bà: “Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính nguỵ không?”. Đây là câu hỏi thể hiện cái nhìn đầy định kiến của Phùng về gã đàn ông. Từng là một người lính giải phóng, hẳn Phùng sẽ luôn giữ cái nhìn “hình viên đạn” với bất kể tên lính nguỵ nào. Có lẽ, ngay khi nhìn thấy chiếc thắt lưng của lính nguỵ được gã đàn ông rút ra để đánh người đàn bà trên bờ biển, Phùng đã mặc định gã đàn ông này từng đi lính cho nguỵ. Và như vậy, gã chính là kẻ thù của một người lính như Phùng. Thêm nữa, cũng có lẽ Phùng mặc định bất kể kẻ nào là lính nguỵ thì cũng tàn độc mà thôi.
o Người đàn bà khẳng định: “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Và chính người đàn bà lí giải tính cách bạo lực của gã đàn ông bằng sự tha hoá do hoàn cảnh sống đưa lại.
• Về chính cuộc đời của người đàn bà:
o Phùng và Đẩu nhìn người đàn bà là nạn nhân đáng thương, thậm chí ngu ngốc của nạn bạo hành. Hai người này muốn giải thoát cho bà ta.
o Người đàn bà từ chối lòng tốt của Phùng và Đẩu. Là người trong cuộc, hơn ai hết bà ta hiểu và chấp nhận cuộc đời của chính mình, thậm chí rất nâng niu những giây phút hạnh phúc hiếm hoi, coi đó là động lực sống - đó là những giây phút gia đình ba ta hoà thuận, vui vẻ, hay đó là giây phút bà ta nhìn thấy đàn con được ăn no.
Sở dĩ có độ chênh, có sự khác biệt trong cái nhìn và cách nhìn của người đàn bà với Phùng và Đẩu là bởi: khoảng cách và sự gián cách. Phùng và Đẩu đứng từ xa (chứ không trong tâm thế của người trong cuộc) quan sát hiện tượng người đàn bà bị bạo hành; cái nhìn của hai người này vẫn còn chứa những thiên kiến, định kiến, những hạn chế.
** Nhận xét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu
- Trong đoạn trích nói riêng và trong tác phẩm nói chung, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cách nhìn nhận con người của mình qua cách nhìn nhận của Phùng, Đẩu và người đàn bà về gã đàn ông và qua cách nhìn nhận của Phùng và Đẩu về chính người đàn bà. Theo đó, nhà văn khẳng định:
+ Trước một con người, chúng ta nên có cái nhìn từ nhiều phía, nhiều chiều thì mới có thể nhìn trúng được bản chất của con người đó.
+ Khi nhìn nhận một con người, chúng ta nên và cần nhìn bằng cái nhìn của sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương, tôn trọng. (Nam Cao: Người chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ).
⟶ Cách nhìn đúng đắn và nhân văn.
- Ý nghĩa của cách nhìn đó:
+ Giúp Nguyễn Minh Châu bộc lộ cái tâm và cái tài của nhà văn một cách trọn vẹn.
+ Mang đến độc giả bài học về cách nhìn nhận, đánh giá một con người: Khi nhìn từ nhiều phía, nhiều chiều, chúng ta mới có cơ hội để tiệm cận và thấu hiểu con người; khi nhìn bằng cái nhìn của tình yêu thương, chúng ta mới có thể bao dung với con người.
* Đánh giá, nhận xét; mở rộng, nâng cao
- Đoạn trích khắc hoạ thành công hình tượng người đàn bà hàng chài đồng thời thể hiện rõ nét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu.
- Đoạn trích thể hiện tầm vóc của một nhà văn có trách nhiệm với ngòi bút của mình.
c. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề nghị luận.
Bài văn cảm nhận về hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích; từ đó, nhận xét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu có thể được triển khai theo hướng:
a. Mở bài
Ví dụ:
Trong cuốn Đa-ghét-xtan của tôi, Ra-xun Gam-za-tốp từng viết:
Đừng nói: Trao cho tôi đề tài
Hãy nói: Trao cho tôi đôi mắt
Thực vậy, vấn đề cốt lõi đối với người nghệ sĩ thực ra không phải là phạm vi đời sống mà anh ta khám phá mà là ở cái nhìn, cách nhìn của chính anh ta đối với hiện thực đời sống đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, thông qua hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong cuộc gặp gỡ với chánh án Đẩu và nhiếp ảnh gia Phùng, Nguyễn Minh Châu đã mang đến người đọc một - cách - nhìn - nhận về con người.
b. Thân bài
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Tác giả Nguyễn Minh Châu:
+ Vị trí: Là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
+ Đặc điểm sáng tác:
• Trước năm 1975: Nguyễn Minh Châu chủ yếu sáng tác ở mảng đề tài người lính, chiến tranh. Cảm hứng sáng tác của nhà văn chủ yếu là cảm hứng anh hùng, ngợi ca những tấm gương chiến đấu, hi sinh trong chiến tranh, đậm chất sử thi lãng mạn.
• Sau năm 1975: Một mặt, nhà văn tiếp tục viết về đề tài người lính, song ông chủ yếu tập trung viết về nỗi đau của con người thời hậu chiến. Mặt khác, tác giả đi sâu khai thác những vấn đề nổi cộm, nhức nhối của thế sự và đời tư con người. Qua đó, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sâu sắc những băn khoăn, trăn trở, những suy tư, chiêm nghiệm của mình về cuộc đời, về con người.
- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa:
+ Vị trí: Cùng với Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra,... Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác vô cùng đặc sắc của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sau năm 1975.
+ Hoàn cảnh sáng tác:
• Truyện được hoàn thành năm 1983, thời điểm này, đất nước vẫn đang duy trì nền kinh tế bao cấp với rất nhiều bất cập, đời sống người dân rất khó khăn.
• Trước tình hình đó, yêu cầu đổi mới được đặt ra như một nhiệm cấp bách phải được thực hiện ngay để giải quyết những hệ luỵ từ việc duy trì nền kinh tế bao cấp. Theo đó, văn học, một lĩnh vực của văn hoá, cũng buộc phải thay đổi để phù hợp với bối cảnh xã hội.
Trong hoàn cảnh đó, Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, thể hiện rất rõ tư duy đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
- Đoạn trích: nằm ở nửa sau của truyện ngắn, tập trung khắc hoạ hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài.
* Giải quyết vấn đề nghị luận
** Cảm nhận về hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích
- Sơ lược về bối cảnh xuất hiện nhân vật trong đoạn trích: Người đàn bà xuất hiện trong cuộc trò chuyện với Phùng và Đẩu ở toà án huyện, nơi Đẩu làm chánh án, cũng là nơi Phùng đang lưu lại để điều trị vết thương trong cuộc ẩu đả với gã đàn ông vũ phu.
- Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích: Nhân vật được Nguyễn Minh Châu tập trung khắc họa thông qua lời nói, thông qua cuộc trò chuyện với Phùng và Đẩu. Qua đó, người đàn bà đã bộc lộ nhiều đặc điểm (phẩm chất, tính cách) của mình.
+ Lòng bao dung, nhân hậu khi nói về gã chồng:
• Dù là nạn nhân thường xuyên của nạn bạo hành từ gã chồng vũ phu, song người đàn bà vẫn chưa khi nào quên được hình ảnh của gã chồng thời trẻ (“Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.”).
• Bà ta lí giải nguyên do khiến gã chồng trở nên tàn độc, tha hoá là vì trước những áp lực của cuộc sống khó khăn, gã đàn ông này lại không biết uống rượu để giải toả những uất ức, bức bách trong đời sống. Gã ta đánh vợ như là một cách để trút giận, để giải toả những uất ức, khổ sở, bức bối đó. (“Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu...”).
• Khi chia sẻ với Phùng và Đẩu về câu chuyện gia đình mình, người đàn bà không đổ hết trách nhiệm lên chồng. Hai lần trong đoạn trích người đàn bà đưa ra những lí do khác để “giảm nhẹ” tội cho chồng mình (“Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”).
Việc người đàn bà tự nhận trách nhiệm chính, tự nhận lỗi chính thuộc về mình còn cho thấy lòng tự trọng rất đáng quý ở một người phụ nữ lao động nghèo.
• Sẵn sàng biến mình thành “tấm bia” để gã chồng lên đạn bắn mỗi khi gã uất ức, khổ sở.
+ Thương con:
• Khi chấp nhận để chồng đánh như một cách để gã giải toả những uất ức, khổ sở, người đàn bà đã xin chồng đưa lên bờ mà đánh. Chi tiết cho thấy tình yêu thương, sự lo lắng rất mực của người mẹ khốn khổ đối với các con. Bà ta không muốn các con bị tổn thương về tâm hồn khi chứng kiến cảnh bố đánh mẹ tàn độc như vậy.
• Người đàn bà nhất định không chịu bỏ chồng vì bà ta cần gã chồng vũ phu ấy chung lưng đấu cật, cùng nhau làm lụng để nuôi đàn con trên dưới chục đứa.
• Nhận thức đúng đắn về thiên chức của người mẹ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con”. Đây là nhận thức mang tính bản năng chứ không phải do được học hành, nhưng chính bởi vậy mà nhận thức ấy lại rất sâu sắc.
• Khi được hỏi về giây phút vui nhất trong cuộc đời, người đàn bà đã trả lời ngay: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Câu nói của người mẹ thực đáng thương bởi lẽ niềm hạnh phúc cũng chính là niềm mong mỏi đau đáu suốt cuộc đời của người đàn bà này không phải là điều gì quá lớn lao mà chính là một điều hết sức nhỏ nhoi, giản dị. Song, không vì mong ước, niềm vui quá giản dị mà người đọc lại không cảm nhận được sự vĩ đại trong tình yêu thương con của người mẹ nghèo khổ.
- Sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời:
+ Để khắc hoạ sự sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã đối lập vẻ bề ngoài với những phẩm chất tốt đẹp trong chính nhân vật. Nhà văn để người đọc có ấn tượng sâu sắc về vẻ bề ngoài đáng thương, tội nghiệp của người đàn bà:
• Vẻ bề ngoài: xấu xí (mặt rỗ, gương mặt lúc nào cũng mệt mỏi do thiếu ngủ, quần áo toàn những miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng).
• Dáng điệu: lúng túng, đầy sợ sệt.
• Đáng thương, cam chịu một cách ngu ngốc: chấp nhận để chồng đánh ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
+ Sự sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà chỉ được bộc lộ trong cuộc trò chuyện giữa bà ta với Phùng và Đẩu. Qua những điều mà người đàn bà giãi bày, chia sẻ, Phùng, Đẩu và cả người đọc mới vỡ lẽ về những lí do khiến người đàn bà không thể bỏ chồng:
• Gia đình người đàn bà làm công việc chài lưới. Cuộc sống của họ quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển. Mà hiển nhiên, không phải lúc nào sóng cũng yên biển cũng lặng, cũng có lúc biển động, sóng dữ. Những lúc như thế, bất cứ con thuyền nào cũng cần có một gã đàn ông khoẻ mạnh làm trụ cột để chèo chống con thuyền khi phong ba bão táp.
• Người đàn bà này có cả chục đứa con, riêng mình bà ta không thể một mình nuôi con được. Người đàn bà này không thuộc tuýp có thể ruồng rẫy chồng con, ruồng rẫy cuộc sống nghèo khổ để đi tìm vui, tìm ấm no, hạnh phúc cho riêng mình. Do đó, bà ta luôn cần gã chồng - dù đó là gã đàn ông tàn độc - cùng làm lụng, “chung lưng đấu cật” để nuôi đàn con.
• Khi lí giải nguyên nhân dẫn đến thói bạo lực của gã chồng, người đàn bà không tìm lỗi ở gã đàn ông mà lại xuất phát từ nguyên nhân chủ quan (từ chính mình) và khách quan (từ hoàn cảnh sống) để lí giải. Theo đó, bà ta cho rằng lỗi chính là do “đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá” và khách quan là do thuyền chật, cuộc sống quá khó khăn (có những tháng biển động, cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối).
• Một trong những lí do nữa khiến người đàn bà không thể bỏ chồng là bởi với bà ta, việc gã đàn ông đánh vợ chỉ là hiện tượng, không phải là bản chất; không phải lúc nào gia đình bà ta cũng lục đục, mà “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”. Với chi tiết này, đồng thời với việc cảm nhận về sự sắc sảo, thấu suốt lẽ đời, người đọc cũng có thể cảm nhận thêm một nét đẹp khác trong hình tượng nhân vật này: luôn biết trân trọng những niềm vui nhỏ bé của cuộc đời, luôn biết chắt chiu những giọt hạnh phúc hiếm hoi của cuộc đời làm động lực sống cho mình.
Xét về “lượng”, trong khi Phùng và Đẩu chỉ vin vào một lí do duy nhất là sự tàn độc của gã đàn ông để thuyết phục người đàn bà bỏ chồng thì chính người đàn bà ấy lại viện dẫn được hơn một lí do/ nhiều lí do để thuyết phục ngược lại Phùng và Đẩu.
Xét từ “chất”, trong khi Phùng và Đẩu chỉ nhìn ở hiện tượng và nhìn bằng cái nhìn đầy định kiến về gã đàn ông thì người đàn bà lại nhìn bằng cái nhìn của kẻ trong cuộc, nhìn thấu vào bản chất của sự việc, của con người.
+ Không chỉ thuyết phục Phùng và Đẩu bằng những lí do từ chính góc nhìn của người trong cuộc, qua đoạn trích, người đọc còn nhận thấy có sự khác biệt trong cái nhìn và cách nhìn của người đàn bà với cái nhìn, cách nhìn của Phùng và Đẩu về công việc chài lưới, về gã đàn ông và về chính cuộc đời của người đàn bà.
• Về công việc chài lưới:
o Đẩu hỏi người đàn bà: “Vậy sao không lên bờ mà ở?”. Khi hỏi người đàn bà câu này, chứng tỏ Đẩu không hiểu gì về công việc chài lưới của những người dân hàng chài.
o Người đàn bà: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? (...) cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”. Là người trong cuộc, là người sống bằng nghề chài lưới, có những trải nghiệm thực tế nên người đàn bà đã lí giải thuyết phục nguyên do vì sao họ không thể sống trên bờ mà phải chấp nhận chen chúc trên con thuyền chật chội.
• Về gã đàn ông:
o Phùng hỏi người đàn bà: “Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính nguỵ không?”. Đây là câu hỏi thể hiện cái nhìn đầy định kiến của Phùng về gã đàn ông. Từng là một người lính giải phóng, hẳn Phùng sẽ luôn giữ cái nhìn “hình viên đạn” với bất kể tên lính nguỵ nào. Có lẽ, ngay khi nhìn thấy chiếc thắt lưng của lính nguỵ được gã đàn ông rút ra để đánh người đàn bà trên bờ biển, Phùng đã mặc định gã đàn ông này từng đi lính cho nguỵ. Và như vậy, gã chính là kẻ thù của một người lính như Phùng. Thêm nữa, cũng có lẽ Phùng mặc định bất kể kẻ nào là lính nguỵ thì cũng tàn độc mà thôi.
o Người đàn bà khẳng định: “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Và chính người đàn bà lí giải tính cách bạo lực của gã đàn ông bằng sự tha hoá do hoàn cảnh sống đưa lại.
• Về chính cuộc đời của người đàn bà:
o Phùng và Đẩu nhìn người đàn bà là nạn nhân đáng thương, thậm chí ngu ngốc của nạn bạo hành. Hai người này muốn giải thoát cho bà ta.
o Người đàn bà từ chối lòng tốt của Phùng và Đẩu. Là người trong cuộc, hơn ai hết bà ta hiểu và chấp nhận cuộc đời của chính mình, thậm chí rất nâng niu những giây phút hạnh phúc hiếm hoi, coi đó là động lực sống - đó là những giây phút gia đình ba ta hoà thuận, vui vẻ, hay đó là giây phút bà ta nhìn thấy đàn con được ăn no.
Sở dĩ có độ chênh, có sự khác biệt trong cái nhìn và cách nhìn của người đàn bà với Phùng và Đẩu là bởi: khoảng cách và sự gián cách. Phùng và Đẩu đứng từ xa (chứ không trong tâm thế của người trong cuộc) quan sát hiện tượng người đàn bà bị bạo hành; cái nhìn của hai người này vẫn còn chứa những thiên kiến, định kiến, những hạn chế.
** Nhận xét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu
- Trong đoạn trích nói riêng và trong tác phẩm nói chung, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cách nhìn nhận con người của mình qua cách nhìn nhận của Phùng, Đẩu và người đàn bà về gã đàn ông và qua cách nhìn nhận của Phùng và Đẩu về chính người đàn bà. Theo đó, nhà văn khẳng định:
+ Trước một con người, chúng ta nên có cái nhìn từ nhiều phía, nhiều chiều thì mới có thể nhìn trúng được bản chất của con người đó.
+ Khi nhìn nhận một con người, chúng ta nên và cần nhìn bằng cái nhìn của sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương, tôn trọng. (Nam Cao: Người chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ).
⟶ Cách nhìn đúng đắn và nhân văn.
- Ý nghĩa của cách nhìn đó:
+ Giúp Nguyễn Minh Châu bộc lộ cái tâm và cái tài của nhà văn một cách trọn vẹn.
+ Mang đến độc giả bài học về cách nhìn nhận, đánh giá một con người: Khi nhìn từ nhiều phía, nhiều chiều, chúng ta mới có cơ hội để tiệm cận và thấu hiểu con người; khi nhìn bằng cái nhìn của tình yêu thương, chúng ta mới có thể bao dung với con người.
* Đánh giá, nhận xét; mở rộng, nâng cao
- Đoạn trích khắc hoạ thành công hình tượng người đàn bà hàng chài đồng thời thể hiện rõ nét cách nhìn nhận con người của Nguyễn Minh Châu.
- Đoạn trích thể hiện tầm vóc của một nhà văn có trách nhiệm với ngòi bút của mình.
c. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề nghị luận.