Câu hỏi hướng dẫn đọc
Câu 1 [561927]: Tóm tắt và nêu tình huống của đoạn trích.
- Tóm tắt đoạn trích:
Sau khi đi thăm đồng, ông Đoàn Xoa trở về nhà. Hướng, bí thư Đảng uỷ xã, đã ở nhà ông để nghe ngóng tình hình. Ông kể chuyện mình vờ hỏi thử bà con về chuyện khoản ruộng và yên tâm khi thấy tình hình quê hương vẫn vững vàng trong khi nhiều nơi “khoán chui” lung tung lắm. Mọi người yên lặng nhìn nhau.
Bà Xoa vội bảo Mai ra nói với Thông đừng vác bao đạm về nhà nhưng không kịp, bà Xoa nói dối chồng đó là người chuyển đạm cho hợp tác vào nhầm nhà.
Thấy cụ Bản sang, ông Xoa tưởng cụ đến ăn xin nên bảo vợ san sẻ gói mì sợi và cơm nguội phơi khô mình vừa mang về. Ông Xoa trách bí thư Đảng uỷ xã để dân đói. Không ngờ cụ Bản cho biết mình đến là đề mời gia đình ông Xoa sang ăn mừng nhà cụ đã lên được nếp nhà ngói năm gian. Ông Xoa ngạc nhiên. Cụ Bản thông báo cho ông Xoa biết cả làng ai cũng khá giả nhờ việc giao khoán.
Ông Xoa nổi giận cho rằng tình hình “loạn, loạn đến nơi rồi!”. Ông đến nhà bí thư Huyện uỷ để xác minh nhưng không gặp. Ông gọi điện cho Chủ tịch tỉnh cũng không được nên định về ngay Trung ương báo cáo. Vợ bí thư Huyện uỷ tìm kế hoãn binh, nhờ ông và con gái ra biển mua mẻ tôm về làm bữa trưa.
Ông Xoa bắt gặp cảnh thuỷ thủ mang cá tươi đi bán tự do theo giá chợ. Ông tức giận đòi mời chính quyền ra lập biên bản. Thuyền trưởng Quân xuất hiện và quyết liệt khẳng định việc làm của mình là chính đáng, phê phán ông Xoa là người duy tâm, trái ngược tự nhiên. Ông Đoàn Xoa đe doạ sẽ không cho qua chuyện này.
- Tình huống kịch trong đoạn trích: Ông Đoàn Xoa về thăm quê và phát hiện ra sự việc “khoán chui” ở địa phương mình.
Sau khi đi thăm đồng, ông Đoàn Xoa trở về nhà. Hướng, bí thư Đảng uỷ xã, đã ở nhà ông để nghe ngóng tình hình. Ông kể chuyện mình vờ hỏi thử bà con về chuyện khoản ruộng và yên tâm khi thấy tình hình quê hương vẫn vững vàng trong khi nhiều nơi “khoán chui” lung tung lắm. Mọi người yên lặng nhìn nhau.
Bà Xoa vội bảo Mai ra nói với Thông đừng vác bao đạm về nhà nhưng không kịp, bà Xoa nói dối chồng đó là người chuyển đạm cho hợp tác vào nhầm nhà.
Thấy cụ Bản sang, ông Xoa tưởng cụ đến ăn xin nên bảo vợ san sẻ gói mì sợi và cơm nguội phơi khô mình vừa mang về. Ông Xoa trách bí thư Đảng uỷ xã để dân đói. Không ngờ cụ Bản cho biết mình đến là đề mời gia đình ông Xoa sang ăn mừng nhà cụ đã lên được nếp nhà ngói năm gian. Ông Xoa ngạc nhiên. Cụ Bản thông báo cho ông Xoa biết cả làng ai cũng khá giả nhờ việc giao khoán.
Ông Xoa nổi giận cho rằng tình hình “loạn, loạn đến nơi rồi!”. Ông đến nhà bí thư Huyện uỷ để xác minh nhưng không gặp. Ông gọi điện cho Chủ tịch tỉnh cũng không được nên định về ngay Trung ương báo cáo. Vợ bí thư Huyện uỷ tìm kế hoãn binh, nhờ ông và con gái ra biển mua mẻ tôm về làm bữa trưa.
Ông Xoa bắt gặp cảnh thuỷ thủ mang cá tươi đi bán tự do theo giá chợ. Ông tức giận đòi mời chính quyền ra lập biên bản. Thuyền trưởng Quân xuất hiện và quyết liệt khẳng định việc làm của mình là chính đáng, phê phán ông Xoa là người duy tâm, trái ngược tự nhiên. Ông Đoàn Xoa đe doạ sẽ không cho qua chuyện này.
- Tình huống kịch trong đoạn trích: Ông Đoàn Xoa về thăm quê và phát hiện ra sự việc “khoán chui” ở địa phương mình.
Câu 2 [561928]: Đoạn trích sử dụng những loại ngôn ngữ nào?
Đoạn trích sử dụng ngôn ngữ đối thoại và chỉ dẫn sân khấu.
Câu 3 [561929]: Đoạn trích thể hiện xung đột giữa những nhân vật nào và vì sao giữa các nhân vật đó lại nảy sinh xung đột?
- Xung đột trong đoạn trích xảy ra giữa nhân vật Đoàn Xoa với tất cả các nhân vật còn lại (Hướng - bí thư Đảng uỷ xã; bà Xoa - vợ ông Đoàn Xoa, cụ Bản - hàng xóm, thuỷ thủ, thuyền trưởng Quân,...).
- Nguyên nhân dẫn tới xung đột:
+ Đoàn Xoa là hình tượng người lãnh đạo quan liêu, lạc hậu, trì trệ, bảo thủ, cứng nhắc, máy móc, duy ý chí, trái tự nhiên.
+ Các nhân vật còn lại là hình ảnh của con người trong thực tế đời sống, họ dũng cảm, tiên phong trong cách nghĩ, cách làm, dám sáng tạo, bứt phá, thuận theo quy luật của đời sống.
⟶ Đây thực chất là sự xung đột giữa cái cũ và cái mới.
- Nguyên nhân dẫn tới xung đột:
+ Đoàn Xoa là hình tượng người lãnh đạo quan liêu, lạc hậu, trì trệ, bảo thủ, cứng nhắc, máy móc, duy ý chí, trái tự nhiên.
+ Các nhân vật còn lại là hình ảnh của con người trong thực tế đời sống, họ dũng cảm, tiên phong trong cách nghĩ, cách làm, dám sáng tạo, bứt phá, thuận theo quy luật của đời sống.
⟶ Đây thực chất là sự xung đột giữa cái cũ và cái mới.
Câu 4 [561930]: Anh/Chị có đồng tình với ý kiến “Tôi nói ông là người duy tâm, người trái ngược tự nhiên...”, “Nguyên do của cái nghèo, một phần vì còn tồn tại nhiều người nghĩ trái tự nhiên như ông đấy.” của thuyền trưởng Quân về nhân vật Đoàn Xoa không? Vì sao?
Ý kiến của thuyền trưởng Quân nhận xét nhân vật Đoàn Xoa: “Tôi nói ông là người duy tâm, người trái ngược tự nhiên...”, “Nguyên do của cái nghèo, một phần vì còn tồn tại nhiều người nghĩ trái tự nhiên như ông đấy.”
- Người duy tâm: người có quan điểm duy tâm (trái với duy vật), cho rằng tinh thần, ý thức, tâm lí là cái có trước và quyết định sự tồn tại của thế giới vật chất.
Người trái ngược tự nhiên: người suy nghĩ và hành động không thuận theo các quy luật của thực tiễn.
- Theo đó, có thể thấy nhân vật Quân đã dám nói thẳng, nói thật với ông Đoàn Xoa hai điều:
+ Ông là người duy tâm, người trái ngược tự nhiên;
+ Lối suy nghĩ duy tâm, trái tự nhiên của ông Xoa và nhiều người là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước mãi đói nghèo.
Đó là ý kiến thẳng thắn, dũng cảm và vô cùng xác đáng. Những lời thoại của nhân vật đã làm rõ nội dung này: “Tình hình nhiều nơi nguy cấp lắm. Công cụ sản xuất giao vào tay xã viên”, “Rồi cả những vật tư... họ dám cả gan bán cho từng nhà”, “Người ta còn có thể làm đến chết trâu chết bò... Họ làm vì hợp tác hay vì cá nhân họ?”, “Làm gì còn hợp tác?... Loạn, loạn đến nơi rồi!”, “...tại sao cả là sản phẩm của nhà nước, tài sản xã hội chủ nghĩa, mà các anh lại đem bán ra ngoài. Ai cho phép?”, “Vậy thì họ làm việc vì cái gì? Vì lí tưởng hay vì miếng ăn?”.
Các lời thoại trên cho thấy:
• Ông Xoa tách rời lợi ích của hợp tác và cá nhân, lợi ích của mỗi người và lợi ích chung của đất nước, chỉ quan tâm đến lợi ích của hợp tác, của nhà nước, không quan tâm đến lợi ích của cá nhân (gắn liền với cuộc sống, miếng cơm, manh áo của mỗi người, mỗi gia đình); ông tách rời “lí tưởng” (thuộc về đời sống tinh thần, khát vọng của con người) với “miếng ăn” (thuộc về phương diện vật chất, đời sống hằng ngày của con người) và chỉ coi trọng việc “vì lí tưởng”, không quan tâm, thậm chí coi thường chuyện “vì miếng ăn”, không quan tâm đến cuộc sống cơm áo gạo tiền của con người.
Trong khi đó, như lời nhân vật Quân chỉ rõ: Phải chăm lo đến đời sống của người lao động thì họ mới toàn tâm toàn ý được. Ngoài nghĩa vụ đã đóng góp với nhà nước, với tập thể, còn có phần của chúng tôi. Chúng tôi được quyền hưởng.
• Ông Xoa yêu cầu phải thực hiện đúng các chủ trương chính sách đã đề ra mà không quan tâm xem điều đó có còn phù hợp với thực tiễn nữa không. Chủ trương hợp tác hoá có thể phù hợp trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, cần huy động tối đa sức người, sức của, đặt lợi ích của tập thể, của đất nước lên hàng đầu, mỗi người sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân,...
Nhưng nay, bối cảnh đã thay đổi. Chính sách hợp tác hoá, quốc hữu hoá tư liệu sản xuất, ăn chung, làm chung, hưởng chung, sở hữu tập thể đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Nó mài mòn động lực cố gắng của mỗi cá nhân. Vì làm ít, làm nhiều, thực hiện có hiệu quả hay không hiệu quả công việc cũng được hưởng thành quả như nhau. Nó cào bằng lợi ích của mỗi người, mỗi gia đình. Nó dẫn đến việc ỷ lại vào tập thể, lười biếng, thiếu sáng tạo, “cha chung không ai khóc”. Kết quả là kéo lùi sự phát triển.
Ông suy nghĩ cứng nhắc, áp đặt, máy móc rằng cứ không đúng như chính sách là sai trái (dẫu chính sách đó đã lạc hậu so với thực tiễn). Ông không thấy rằng người dân nhờ “khoán chui” mà khá giả, mọi nghĩa vụ nộp cho nhà nước vẫn hoàn thành tốt, mà chỉ đánh giá như thế là “xé rào”, là sai đường lối, là vi pham. Lấy các chính sách đã lạc hậu so với sự phát triển của thực tiễn để làm “khuôn vàng thước ngọc”, “ép” thực tiễn, cho nên những gì vượt ra ngoài điều đó theo quy luật tất yếu của tự nhiên lập tức sẽ bị quy kết là “loạn”, “loạn đến nơi rồi!”. Kì thực, đó không phải là “loạn” mà là sự đồng cảm, tiên phong, lắng nghe và hành động theo thực tiễn. Một suy nghĩ, hành động như thế là duy tâm, là trái với tự nhiên. Tiếng cười trong đoạn trích hướng vào phê phán cái lạc hậu, duy tâm, trái tự nhiên đó để mở đường cho sự phát triển.
- Hậu quả của lối suy nghĩ và hành động duy tâm, trái tự nhiên:
+ Làm cho đất nước mãi nghèo, kéo lùi sự phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện ngay trong các minh chứng thực tế từ tác phẩm. Lối làm ăn tập thể “đánh trống ghi tên” đã dẫn đến kết cục là dẫu ruộng đất thẳng cánh cò bay, đất đai “bờ xôi ruộng mật”, tư liệu sản xuất được cung cấp đầy đủ,... thế nhưng năng suất lao động kém, sản lượng thu hoạch thấp, dân phải chịu cảnh đói kém, tha hương để xin ăn. Chính bản thân ông Xoa và gia đình cũng có cuộc sống rất khó khăn. Từ Hà Nội về quê, quà ông mang về cho gia đình thực chất là thứ lương thực “cứu đói” mà ông dành dụm, chịu khó tích cóp,... Trong khi đó, kết quả của việc “khoán chui” chỉ trong mấy vụ đã cho thấy cuộc sống của người dân tốt lên như thế nào. Gia đình ông Bản xây được nhà mới, bà con nông dân no ấm, chăm chút cho mảnh ruộng của mình, thuỷ thủ được đàng hoàng mang sản phẩm dư thừa của mình đi bán tự do, người có nhu cầu có thể tự do mua bán,...
+ Không chỉ như vậy, lối suy nghĩ và hành động đó còn dẫn đến việc làm tha hoá con người. Người ta không thể “ngồi chờ chết” nên buộc phải “xoay xoả để mà sống”. “Cách suy nghĩ như ông đã biến người ta thành kẻ cắp. Người lương thiện nhất là ăn cắp giờ.”. Hay như những người thân của ông, những người dân vẫn yêu quý, hiểu tình cảm của thao với gia đình, quê hương nhưng cũng không thể nói thật với ông, họ buộc phải chọn cách nói dối, làm “chui”.
Trong khi đó, đáng lẽ người ta phải được “quyền ngẩng cao đầu mà tự hào rằng: Ngoài nghĩa vụ đã đóng góp với nhà nước, với tập thể, còn có phần của chúng tôi. Chúng tôi được quyền hưởng. Thích ăn, thích cho hay đem bán là tuỳ ý.”.
- Người duy tâm: người có quan điểm duy tâm (trái với duy vật), cho rằng tinh thần, ý thức, tâm lí là cái có trước và quyết định sự tồn tại của thế giới vật chất.
Người trái ngược tự nhiên: người suy nghĩ và hành động không thuận theo các quy luật của thực tiễn.
- Theo đó, có thể thấy nhân vật Quân đã dám nói thẳng, nói thật với ông Đoàn Xoa hai điều:
+ Ông là người duy tâm, người trái ngược tự nhiên;
+ Lối suy nghĩ duy tâm, trái tự nhiên của ông Xoa và nhiều người là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước mãi đói nghèo.
Đó là ý kiến thẳng thắn, dũng cảm và vô cùng xác đáng. Những lời thoại của nhân vật đã làm rõ nội dung này: “Tình hình nhiều nơi nguy cấp lắm. Công cụ sản xuất giao vào tay xã viên”, “Rồi cả những vật tư... họ dám cả gan bán cho từng nhà”, “Người ta còn có thể làm đến chết trâu chết bò... Họ làm vì hợp tác hay vì cá nhân họ?”, “Làm gì còn hợp tác?... Loạn, loạn đến nơi rồi!”, “...tại sao cả là sản phẩm của nhà nước, tài sản xã hội chủ nghĩa, mà các anh lại đem bán ra ngoài. Ai cho phép?”, “Vậy thì họ làm việc vì cái gì? Vì lí tưởng hay vì miếng ăn?”.
Các lời thoại trên cho thấy:
• Ông Xoa tách rời lợi ích của hợp tác và cá nhân, lợi ích của mỗi người và lợi ích chung của đất nước, chỉ quan tâm đến lợi ích của hợp tác, của nhà nước, không quan tâm đến lợi ích của cá nhân (gắn liền với cuộc sống, miếng cơm, manh áo của mỗi người, mỗi gia đình); ông tách rời “lí tưởng” (thuộc về đời sống tinh thần, khát vọng của con người) với “miếng ăn” (thuộc về phương diện vật chất, đời sống hằng ngày của con người) và chỉ coi trọng việc “vì lí tưởng”, không quan tâm, thậm chí coi thường chuyện “vì miếng ăn”, không quan tâm đến cuộc sống cơm áo gạo tiền của con người.
Trong khi đó, như lời nhân vật Quân chỉ rõ: Phải chăm lo đến đời sống của người lao động thì họ mới toàn tâm toàn ý được. Ngoài nghĩa vụ đã đóng góp với nhà nước, với tập thể, còn có phần của chúng tôi. Chúng tôi được quyền hưởng.
• Ông Xoa yêu cầu phải thực hiện đúng các chủ trương chính sách đã đề ra mà không quan tâm xem điều đó có còn phù hợp với thực tiễn nữa không. Chủ trương hợp tác hoá có thể phù hợp trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, cần huy động tối đa sức người, sức của, đặt lợi ích của tập thể, của đất nước lên hàng đầu, mỗi người sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân,...
Nhưng nay, bối cảnh đã thay đổi. Chính sách hợp tác hoá, quốc hữu hoá tư liệu sản xuất, ăn chung, làm chung, hưởng chung, sở hữu tập thể đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Nó mài mòn động lực cố gắng của mỗi cá nhân. Vì làm ít, làm nhiều, thực hiện có hiệu quả hay không hiệu quả công việc cũng được hưởng thành quả như nhau. Nó cào bằng lợi ích của mỗi người, mỗi gia đình. Nó dẫn đến việc ỷ lại vào tập thể, lười biếng, thiếu sáng tạo, “cha chung không ai khóc”. Kết quả là kéo lùi sự phát triển.
Ông suy nghĩ cứng nhắc, áp đặt, máy móc rằng cứ không đúng như chính sách là sai trái (dẫu chính sách đó đã lạc hậu so với thực tiễn). Ông không thấy rằng người dân nhờ “khoán chui” mà khá giả, mọi nghĩa vụ nộp cho nhà nước vẫn hoàn thành tốt, mà chỉ đánh giá như thế là “xé rào”, là sai đường lối, là vi pham. Lấy các chính sách đã lạc hậu so với sự phát triển của thực tiễn để làm “khuôn vàng thước ngọc”, “ép” thực tiễn, cho nên những gì vượt ra ngoài điều đó theo quy luật tất yếu của tự nhiên lập tức sẽ bị quy kết là “loạn”, “loạn đến nơi rồi!”. Kì thực, đó không phải là “loạn” mà là sự đồng cảm, tiên phong, lắng nghe và hành động theo thực tiễn. Một suy nghĩ, hành động như thế là duy tâm, là trái với tự nhiên. Tiếng cười trong đoạn trích hướng vào phê phán cái lạc hậu, duy tâm, trái tự nhiên đó để mở đường cho sự phát triển.
- Hậu quả của lối suy nghĩ và hành động duy tâm, trái tự nhiên:
+ Làm cho đất nước mãi nghèo, kéo lùi sự phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện ngay trong các minh chứng thực tế từ tác phẩm. Lối làm ăn tập thể “đánh trống ghi tên” đã dẫn đến kết cục là dẫu ruộng đất thẳng cánh cò bay, đất đai “bờ xôi ruộng mật”, tư liệu sản xuất được cung cấp đầy đủ,... thế nhưng năng suất lao động kém, sản lượng thu hoạch thấp, dân phải chịu cảnh đói kém, tha hương để xin ăn. Chính bản thân ông Xoa và gia đình cũng có cuộc sống rất khó khăn. Từ Hà Nội về quê, quà ông mang về cho gia đình thực chất là thứ lương thực “cứu đói” mà ông dành dụm, chịu khó tích cóp,... Trong khi đó, kết quả của việc “khoán chui” chỉ trong mấy vụ đã cho thấy cuộc sống của người dân tốt lên như thế nào. Gia đình ông Bản xây được nhà mới, bà con nông dân no ấm, chăm chút cho mảnh ruộng của mình, thuỷ thủ được đàng hoàng mang sản phẩm dư thừa của mình đi bán tự do, người có nhu cầu có thể tự do mua bán,...
+ Không chỉ như vậy, lối suy nghĩ và hành động đó còn dẫn đến việc làm tha hoá con người. Người ta không thể “ngồi chờ chết” nên buộc phải “xoay xoả để mà sống”. “Cách suy nghĩ như ông đã biến người ta thành kẻ cắp. Người lương thiện nhất là ăn cắp giờ.”. Hay như những người thân của ông, những người dân vẫn yêu quý, hiểu tình cảm của thao với gia đình, quê hương nhưng cũng không thể nói thật với ông, họ buộc phải chọn cách nói dối, làm “chui”.
Trong khi đó, đáng lẽ người ta phải được “quyền ngẩng cao đầu mà tự hào rằng: Ngoài nghĩa vụ đã đóng góp với nhà nước, với tập thể, còn có phần của chúng tôi. Chúng tôi được quyền hưởng. Thích ăn, thích cho hay đem bán là tuỳ ý.”.
Câu 5 [561931]: Anh/Chị sẽ bày tỏ quan điểm như thế nào nếu như có ý kiến cho rằng chỉ cần chi tiết phát hiện sự việc “khoán chui” là đủ thể hiện được tính cách nhân vật ông Đoàn Xoa và chủ đề tác phẩm (mà không cần đến chi tiết phát hiện “bán chui” cá ở bãi biển)?
- Việc xuất hiện thêm chi tiết “bán chui” cá của thuỷ thủ bên cạnh chi tiết “khoán chui” của hợp tác xã cho thấy bức tranh rộng lớn của tình hình thực tế. Nó chứng tỏ chính sách đã thực sự lạc hậu và sự bứt phá, “xé rào” là điều diễn ra phổ biến, rộng khắp trong thực tiễn, chỉ có những người quan liêu, áp đặt, xa rời thực tiễn mới không nhận ra điều này.
- Chi tiết “bán chui” cá của các thuỷ thủ thúc đẩy sự phát triển tính cách, hành động của nhân vật, làm cho mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm buộc phải giải quyết. Đó là mâu thuẫn giữa lối suy nghĩ áp đặt, máy móc, duy tâm, trái tự nhiên của ông Xoa với những đòi hỏi sinh động, phức tạp của thực tiễn đời sống.
- Chi tiết “bán chui” cá của các thuỷ thủ thúc đẩy sự phát triển tính cách, hành động của nhân vật, làm cho mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm buộc phải giải quyết. Đó là mâu thuẫn giữa lối suy nghĩ áp đặt, máy móc, duy tâm, trái tự nhiên của ông Xoa với những đòi hỏi sinh động, phức tạp của thực tiễn đời sống.
Câu 6 [561932]: Việc trở thành đối tượng bị châm biếm của nhân vật Đoàn Xoa trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
Việc trở thành đối tượng bị châm biếm của nhân vật Đoàn Xoa trong đoạn trích gợi cho chúng ta suy nghĩ về:
- Việc cần quan tâm, gắn bó với thực tiễn đời sống, tránh xa rời, quan liêu, máy móc, áp đặt trong suy nghĩ và hành động.
- Ý nghĩa của tiếng cười trong văn bản: Hiện tượng “khoán chui” một thời đã dần được “ra chỗ sáng” (bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981), bằng chính sách “Khoán 10” của Bộ Chính trị), tuy nhiên, hiện tượng những con người duy ý chí, quan liêu, áp đặt, cứng nhắc, không quan tâm đến thực tiễn,... vẫn còn tồn tại. Tiếng cười trong đoạn trích vẫn tìm thấy đối tượng và phát huy tác dụng của nó trong cuộc sống hôm nay.
Chẳng hạn, trong nông nghiệp là hiện tượng bất chấp thổ nhưỡng, khí hậu, quy luật cung - cầu của thị trường để chọn chăn nuôi, trồng trọt loại con, loại cây nào đó theo “phong trào”. Hoặc chủ trương thu hút nhân tài trong các cơ quan, các địa phương.... mang tính duy ý chí, chỉ để thể hiện lãnh đạo địa phương, cơ quan đã thức thời, trọng dụng nhân tài, nhưng không đầu tư để có môi trường, điều kiện phù hợp cho những người được thu hút có “đất” để dụng võ,...
- Việc cần quan tâm, gắn bó với thực tiễn đời sống, tránh xa rời, quan liêu, máy móc, áp đặt trong suy nghĩ và hành động.
- Ý nghĩa của tiếng cười trong văn bản: Hiện tượng “khoán chui” một thời đã dần được “ra chỗ sáng” (bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981), bằng chính sách “Khoán 10” của Bộ Chính trị), tuy nhiên, hiện tượng những con người duy ý chí, quan liêu, áp đặt, cứng nhắc, không quan tâm đến thực tiễn,... vẫn còn tồn tại. Tiếng cười trong đoạn trích vẫn tìm thấy đối tượng và phát huy tác dụng của nó trong cuộc sống hôm nay.
Chẳng hạn, trong nông nghiệp là hiện tượng bất chấp thổ nhưỡng, khí hậu, quy luật cung - cầu của thị trường để chọn chăn nuôi, trồng trọt loại con, loại cây nào đó theo “phong trào”. Hoặc chủ trương thu hút nhân tài trong các cơ quan, các địa phương.... mang tính duy ý chí, chỉ để thể hiện lãnh đạo địa phương, cơ quan đã thức thời, trọng dụng nhân tài, nhưng không đầu tư để có môi trường, điều kiện phù hợp cho những người được thu hút có “đất” để dụng võ,...
Bài tập viết
Câu 7 [561933]: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ), bình luận về xung đột kịch trong đoạn trích Loạn đến nơi rồi (trích Mùa hè ở biển - Xuân Trình).
Đoạn văn bình luận về xung đột kịch trong đoạn trích Loạn đến nơi rồi (trích Mùa hè ở biển - Xuân Trình) có thể triển khai theo hướng:
- Xung đột kịch trong đoạn trích: Ông Đoàn Xoa về thăm quê và phát hiện ra sự việc “khoán chui” ở địa phương mình.
- Biểu hiện của xung đột:
+ Trong phạm vi gia đình (với vợ, con)
+ Ngoài gia đình (với cụ Bản, với bí thư Hướng, với thuỷ thủ, với thuyền trưởng Quân)
⟶ Đây thực chất là sự xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa sự quan liêu, lạc hậu, trì trệ, bảo thủ, cứng nhắc, máy móc, duy ý chí, trái tự nhiên với thực tế đời sống, sự sáng tạo, bứt phá, thuận theo quy luật của đời sống.
- Xung đột kịch mang lại cho mỗi chúng ta bài học về nhận thức và hành động sâu sắc.
- Xung đột kịch trong đoạn trích: Ông Đoàn Xoa về thăm quê và phát hiện ra sự việc “khoán chui” ở địa phương mình.
- Biểu hiện của xung đột:
+ Trong phạm vi gia đình (với vợ, con)
+ Ngoài gia đình (với cụ Bản, với bí thư Hướng, với thuỷ thủ, với thuyền trưởng Quân)
⟶ Đây thực chất là sự xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa sự quan liêu, lạc hậu, trì trệ, bảo thủ, cứng nhắc, máy móc, duy ý chí, trái tự nhiên với thực tế đời sống, sự sáng tạo, bứt phá, thuận theo quy luật của đời sống.
- Xung đột kịch mang lại cho mỗi chúng ta bài học về nhận thức và hành động sâu sắc.