BÀI ĐỌC 2: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ 11 đến 20
Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em
[1] Lớp Một. Tôi học xong lớp Một vào tháng Năm năm bốn mốt, và ba mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên ở Gô-rô-đi-sa gần Min-xcơ. Tôi mới bơi được một lần ở đây, hai ngày sau đã là chiến tranh. Người ta đưa chúng tôi lên tàu và chở đi. Máy bay Đức bay trên đầu, còn chúng tôi hò reo: “Ura!”. Chúng là máy bay lạ, chúng tôi nào hiểu. Cho đến khi máy bay đánh bom. Khi đó tất cả màu sắc đều biến mất. Tất cả sắc màu. Lần đầu tiên từ “chết chóc” xuất hiện, mọi người đều nói cái từ khó hiểu đó. Còn ba mẹ thì không bên cạnh…
[2] Khi chúng tôi rời khỏi trại, người ta bỏ đầy áo gối mỗi đứa thứ gì đó - đứa thì ngũ cốc, đứa thì đường. Cả những đứa bé nhất cũng không được chừa, tất cả đều phải mang gì đó theo mình. Chúng tôi phải mang càng nhiều thực phẩm càng tốt trên đường đi, và dùng rất dè sẻn. Nhưng trên tàu chúng tôi thấy những người lính bị thương. Họ rên la, đau đớn đến độ chúng tôi chỉ muốn trao hết tất cả cho. [...] Chúng tôi gọi tất cả những người đàn ông mặc đồ lính là ba.
[3] Người ta kể với chúng tôi là Min-xcơ đã cháy, cháy rụi, quân Đức đã chiếm mất rồi, nên chúng tôi sẽ đi về hậu phương. Chúng tôi đi về nơi không có chiến tranh. Họ chở chúng tôi đi cả tháng. Đưa chúng tôi về thành phố nào đó, nhưng cứ gần tới nơi, họ lại không để chúng tôi ở đó, vì quân Đức đã gần kề. Và cứ thế chúng tôi đến tận Mô-đô-vi-a.
[4] Chỗ ấy rất đẹp, xung quanh là nhà thờ. Những ngôi nhà thấp, còn nhà thờ thì cao. Không có chỗ nằm ngủ, chúng tôi đành chợp mắt trên rơm rạ. Khi mùa đông đến, bốn đứa chung một đôi ủng. Rồi nạn đói bắt đầu. Không chỉ trại mồ côi đói, mà những người xung quanh chúng tôi cũng đói, bởi mọi thứ đều chuyển ra tiền tuyến. Trong trại có hai trăm năm mươi đứa trẻ, và có lần người ta gọi đi ăn trưa, nhưng chẳng có gì để ăn. Những cô bảo mẫu và giám đốc ngôi trong nhà ăn nhìn chúng tôi, mắt họ đầy lệ. Chúng tôi có con ngựa Mai-ca. Nó già và rất dịu dàng, chúng tôi dùng nó để chở nước. Ngày hôm sau, người ta giết Mai-ca. Và cho chúng tôi nước cùng một mẫu rất nhỏ thịt Mai-ca. Người ta giấu chúng tôi chuyện đó rất lâu. Không thì chúng tôi đã không thể nào ăn nổi. Không cách nào! Đó là con ngựa duy nhất trong trại trẻ chúng tôi. Và hai con mèo đói nữa. Những bộ xương! Thật tốt, sau này chúng tôi nghĩ, phúc đức làm sao, nhờ lũ mèo gầy trơ xương nên chúng tôi không phải ăn chúng. Chúng chẳng có gì để ăn cả.
[5] Chúng tôi đi với những cái bụng ỏng, như tôi chẳng hạn, có thể ăn cả xô xúp, bởi trong xúp chẳng có gì. Họ đổ cho tôi bao nhiêu, tôi sẽ ăn và ăn bấy nhiêu. Thiên nhiên đã cứu chúng tôi, những con vật nhai lại. Mùa xuân, trong bán kính vài cây số không một cái cây nào đâm chồi nẩy lộc. Bởi chúng tôi đã ăn hết tất cả chồi mầm, chúng tôi tước cả lớp vỏ non. Người ta cho chúng tôi mặc những chiếc áo khoác ngắn, chúng tôi khoét túi áo để mang cỏ theo người, mang theo và nhai đi nhai lại. Mùa hè cứu độ chúng tôi, còn mùa đông trôi qua rất nặng nề. Những đứa trẻ nhỏ, chúng tôi có khoảng bốn mươi đứa, được cho ở riêng. Ban đêm chúng tôi khóc rền. Gọi ba gọi mẹ. Các cô bảo mẫu và giáo viên cố không nhắc đến từ “mẹ” khi có mặt chúng tôi. Họ kể cho chúng tôi chuyện cổ tích và chọn những quyển sách không có từ này.
[6] Đến lớp Ba, tôi trốn khỏi trại. Tôi đi tìm mẹ. Đói lả và kiệt sức, tôi được ông già Bôn-sa-cốp tìm thấy trong rừng. Biết tôi từ trại mồ côi, ông mang tôi về gia đình mình. Cùng với bà, ba người chúng tôi sống đắp đổi qua ngày. Khi dẫn khoẻ lên, tôi bắt đầu giúp họ việc nhà: dọn cỏ, thu hoạch khoai tây – làm hết mọi việc. Chúng tôi ăn thứ bánh mì có rất ít bột mì. Nó đắng – đắng làm sao. Chúng tôi cho vào bột tất tần tật những gì xay ra được: rau muối, hoa hồ đào, khoai tây. Đến giờ tôi vẫn không thể thản nhiên nhìn cỏ mọng và ăn rất nhiều bánh mì. Tôi không cảm thấy no. Sau hàng chục năm trôi qua. Dẫu sao tôi vẫn nhớ bao nhiêu chuyện. Tôi còn nhớ nhiều…
[7] Chiến tranh kết thúc. Tôi đợi một, rồi hai ngày, nhưng không ai đến đón tôi. Mẹ không đến, và ba thì tôi biết, đang ở trong quân ngũ. Tôi đợi như thế suốt hai tuần, đến khi không còn sức để đợi nữa. Tôi lẻn trốn dưới gầm ghế một con tàu và ra đi... Đi đâu? Tôi không biết. Tôi ngỡ (đó vẫn còn là nhận thức tuổi thơ) rằng tất cả các chuyến tàu đều đến Min-xcơ. Và ở Min-xcơ mẹ đang chờ tôi! Sau đó ba tôi sẽ về. Như một anh hùng! Với các huân chương, mề đay.... Nhưng họ đã mất tích đâu đó trong một trận bom. Sau này những người láng giềng kể lại, cả hai đã lao đi tìn tôi. Họ chạy ra ga... Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ.
(Xvét-la-na A-lếch-xi-ê-vích, Những nhân chứng cuối cùng – Solo cho giọng trẻ em, Phan Xuân Loan dịch, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2017, tr. 21 – 24)
Câu 1 [576532]: Đâu không phải là những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên?
A, Máy bay lạ của Đức.
B, Máy bay đánh bom.
C, Cảnh “chết chóc”.
D, Ba mẹ.
Đáp án: D
Câu 2 [576533]: Đoạn văn [2] cho người đọc thấy điều gì nổi bật trong tính cách những đứa trẻ?
A, Hồn nhiên.
B, Kiên cường.
C, Biết sẻ chia.
D, Kiên trì.
Đáp án: C
Câu 3 [576534]: Theo đoạn [3], theo lời kể của nhân vật tôi, khi nghe tin Min-xcơ đã cháy, họ ngay lập tức chở những đứa bé đến tận Mô- đô-vi-a.
Đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Chọn B, Sai
Câu 4 [576535]: Đoạn [4] có nội dung chủ yếu là gì?
A, Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống đói khát của con người trong bối cảnh chiến tranh.
B, Ấn tượng về cuộc sống của những đứa trẻ ở một nơi rất đẹp, có người chăm sóc.
C, Ấn tượng về sự hi sinh của những con vật làm thức ăn và tình cảm của những đứa trẻ.
D, Ấn tượng về những con vật không có gì để ăn phải hi sinh làm thức ăn cho con người.
Đáp án: A
Câu 5 [576536]: Dòng nào sau đây không nêu đúng nhất tính chất của trạng thái những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ ở đoạn [5]?
A, Khóc nhiều về ban đêm.
B, Mỗi khi nhắc đến mẹ là chúng sẽ khóc.
C, Khóc vì không có ba mẹ kể chuyện.
D, Mong ngóng ba mẹ trong vô vọng.
Đáp án: C
Câu 6 [576537]: Cụm từ “Chỗ ấy” trong đoạn [4] ý chỉ:
A, Những ngôi nhà.
B, Thành phố Mô-đô-vi-a.
C, Thành phố nào đó.
D, Thành phố hậu phương.
Đáp án: B
Câu 7 [576538]: Những câu chuyện gắn với mỗi sự thay đổi trong hành trình cuộc đời của nhân vật tôi không có những cảnh đoàn tụ mà chỉ toàn là xa cách.
Đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Chọn A. Đúng
Câu 8 [576539]: Nối các cột để hoàn thành các nội dung phù hợp nhất với suy nghĩ của nhân vật tôi khi nhìn lại các sự kiện tương ứng.

Đáp án:
1 – A
2 – D
3 – B
1 – A
2 – D
3 – B
Câu 9 [576540]: Điều gì đã giúp nhân vật tôi không quản ngại khó khăn khổ cực, vượt qua những năm tháng gian nan nhất của tuổi thơ ấu?
A, Khát khao được sống.
B, Niềm tin tìm lại được gia đình của mình.
C, Sự giúp đỡ của thiên nhiên dành cho những đứa trẻ.
D, Hi vọng có được cuộc sống yên bình, hạnh phúc của hòa bình.
Đáp án: B
Câu 10 [576541]: Kéo thả các cụm từ thích hợp để hoàn thành đoạn văn về ý nghĩa của bài đọc.
trưởng thành mẫu tử mồ côi
Câu chuyện cho ta thấy tình cảm [__________] mãnh liệt. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng [__________] của nhân vật người con dù khi còn bé hay khi ở độ tuổi trung niên, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình.
trưởng thành mẫu tử mồ côi
Câu chuyện cho ta thấy tình cảm [__________] mãnh liệt. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng [__________] của nhân vật người con dù khi còn bé hay khi ở độ tuổi trung niên, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình.
Đáp án: mẫu tử, trưởng thành