BÀI ĐỌC 1: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 10
Các nhà khoa học tạo bọt biển tổng hợp hút vi nhựa
[1] Các nhà khoa học trên thế giới đang bắt đầu chứng tỏ là bọt biển với những lỗ rỗng có thể là một giải pháp cho một trong những vấn đề nghiêm trọng bậc nhất kỷ nguyên của chúng ta: ô nhiễm vi nhựa.
[2] Vào tháng 8, các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã xuất bản một nghiên cứu miêu tả sự phát triển của họ về một dạng bọt biển tổng hợp có thể góp phần làm giảm lượng vi nhựa. Trong quá trình thử nghiệm sản phẩm mới, các nhà nghiên cứu đã chứng tỏ khi một dung dịch có nhựa được rót xuyên qua một miếng bọt biển tổng hợp, miếng bọt biển lập tức có thể loại cả vi nhựa và thậm chí là nano nhựa khỏi chất lỏng. Các hạt này cụ thể được giữ lại trong vô vàn các lỗ trống trong miếng bọt biển. Hiệu quả hút nhựa của nó trong các thí nghiệm khác nhau đều ở các mức độ khác nhau, nhưng những điều kiện tối ưu cho phép các nhà nghiên cứu loại bỏ khoảng 90% vi nhựa trong nhiều loại nước.
[3] Miếng bọt biển hút nhựa này phần lớn được làm từ tinh bột và gelatin. Nó trông giống như một miếng marshmallow trắng vậy. Miếng bọt biển có khả năng phân hủy sinh học này nhẹ đến mức có thể giữ được thăng bằng trên cả cánh hoa, được các nhà nghiên cứu cho là có thể khiến cho chúng rẻ hơn và dễ vận chuyển hơn. Bên trong, cấu trúc của miếng bọt biển không giống mấy những ô trống dạng bọt li ti mà giống cấu trúc răng cưa hơn.
Theo Guoqing Wang, một nhà hóa vật liệu tại ĐH Đại dương Trung Quốc và là đồng tác giả nghiên cứu, rất dễ điều chỉnh công thức của miếng bọt biển. Bằng việc chỉnh nhiệt độ khi hai hợp chất được trộn vào nhau, miếng bọt biển có thể được tạo ra với ít hoặc nhiều lỗ rỗng hơn. Ảnh hưởng đến kích thước hạt thu thập – bọt biển có độ xốp cao có nhiều lỗ vô cùng nhỏ sẽ tốt để thu về những hạt cực nhỏ.
[4] Dạng bọt biển này, nếu được sản xuất ở quy mô công nghiệp, Wang nói, có thể hữu dụng trong các nhà máy xử lý nước thải để lọc vi nhựa khỏi nước hoặc các nhà máy sản xuất thực phẩm để xử lý chất ô nhiễm. Cũng có thể sử dụng các miếng bọt biển hút nhựa như trong các máy giặt, theo đề xuất của Christian Adlhart, một nhà hóa học ở ĐH Khoa học ứng dụng Zurich, Thụy Sĩ, người đã tham gia thực nghiệm tạo ra các tấm lọc bọt biển để thu thập vi nhựa. Một số loại vi nhựa đã thoát ra ngoài máy giặt để lọt ra đường ống nước sau khi trải qua các lần quay trong máy giặt. “Anh phải đặt một miếng bọt biển ở chỗ ngoài lồng giặt”, Adlhart nói. “Tôi nghĩ nó có thể hấp thụ một lượng lớn vi nhựa”.
[5] Việc có được các miếng bọt biển mà công trình nghiên cứu này tạo ra là nhờ các cơ chế quan trọng, ông nói. Nếu nước được định hướng hoạt động thông qua một cơ chế, ví dụ như xoắn ép và giải phóng, vi nhựa có thể bị bẫy bên trong các lỗ rỗng của bọt biển như việc thu thập đá trong các hộp. Nhưng khi các bọt biển đơn giản là rất nhẹ và trôi trên mặt nước, những tương tác của lực tĩnh điện khiến cho một số hạt vi nhựa khác bám dính lấy nó.
[6] Tuy nhiên cũng có những trục trặc với khả năng áp dụng dạng bọt biển này. Một là, theo Adlhart, thì tinh bột và gelatin đều quan trọng trong ngành công nghiệp thực phẩm, nghĩa là có thể việc sản xuất bọt biển sẽ phải cạnh tranh với những thành phần chính trong tương lai. Dẫu vậy bọt biển tương tự có thể được làm từ những nguyên liệu khác. Một phiên bản khác mà Adlhart và các đồng nghiệp của ông đang phát triển, sử dụng chitosan – một loại đường khai thác từ vỏ của các động vật giáp xác – để tạo ra cấu trúc của bọt biển. Chitosan chưa được sử dụng rộng rãi ở quy mô thương mại, Adlhart chỉ ra, vì vậy những người làm bọt biển từ nguyên liệu này sẽ không phải đối mặt với trường hợp tương tự. Adlhart cho biết thiết kế bọt biển của mình, vốn bao gồm chuyển động quay cùng với một ma trận ống nano chitosan, được truyền cảm hứng từ hoạt động lọc của con sò để bẫy các hạt trong các lớp lọc khi chúng tự bơm nước biển.
[7] Anett Georgi, một nhà hóa học tại Trung tâm nghiên cứu môi trường Helmholtz ở Đức và không tham gia nghiên cứu này, cho biết khi làm sạch ô nhiễm vi nhựa trong đại dương, điều quan trọng là ngọn nguồn của dòng chảy vi nhựa. Chúng ta phải bắt đầu bằng việc hướng đích đến các nhà máy xử lý chất thải, vốn không có công nghệ nào như những tấm lọc để loại bỏ vi nhựa. Những gì có thể giúp hiện thực hóa một cách nhanh chóng, Georgi nói “Chúng ta không thể chờ đợi trước thứ vật liệu điên rồ này”.
[8] Những gì vẫn còn thiếu, Alice Horton tại Trung tâm nghiên cứu đại dương, Anh, cho rằng, đó là những công nghệ bọt biển mới nào cũng rất đắt đỏ ở quy mô lớn. Dẫu vậy bà tin tưởng là nỗ lực loại bỏ vi nhựa cần áp dụng trước khi chúng đến đại dương.
(Tạp chí Tia sáng, tiasang.com.vn)
Câu 1 [576442]: Mục đích chủ yếu của bài viết là gì?
A, Phân tích ưu thế của nghiên cứu bọt biển trong việc lọc các hạt vi nhựa ở các nhà máy.
B, Giới thiệu một nghiên cứu mới có tác dụng hút và lọc các hạt vi nhựa trong môi trường nước.
C, Lí giải lí do cần phải ứng dụng một nghiên cứu có tác dụng hút và lọc các hạt vi nhựa trong nước biển.
D, Đề xuất một hướng đi tương lai cho giải pháp bảo vệ môi trường biển.
Bài viết chủ yếu trình bày một nghiên cứu khoa học mới về việc phát triển một loại bọt biển tổng hợp có thể hút và lọc các hạt vi nhựa trong nước. Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã chế tạo một miếng bọt biển có khả năng thu giữ vi nhựa và nano nhựa từ các dung dịch, nhờ vào cấu trúc có nhiều lỗ trống nhỏ trong bọt biển. Mục tiêu của nghiên cứu là tạo ra một giải pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề ô nhiễm vi nhựa, đặc biệt trong các nhà máy xử lý nước thải, máy giặt, hoặc các cơ sở sản xuất thực phẩm.
Bài viết cung cấp thông tin chi tiết về quá trình phát triển, cấu trúc, và ứng dụng của miếng bọt biển này, đồng thời nêu rõ khả năng phân huỷ sinh học của nó, điều này giúp cho sản phẩm có thể được sản xuất và sử dụng rộng rãi, dễ dàng vận chuyển và hiệu quả trong việc loại bỏ vi nhựa khỏi nước.
Mặc dù bài viết có đề cập đến các ứng dụng tiềm năng khác như lọc vi nhựa trong môi trường đại dương, mục đích chủ yếu của bài viết là giới thiệu và nêu bật nghiên cứu mới về miếng bọt biển có khả năng hút vi nhựa trong môi trường nước. Do đó, đáp án B là phù hợp nhất. Đáp án: B
Câu 2 [576443]: Có thể kết luận rằng: Từ nội dung đoạn [2], miếng bọt xốp bọt biển có thể loại bỏ hoàn toàn 90% vi nhựa có trong mọi chất lỏng.Đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Đáp án: B. Sai.
Giải thích: Trong đoạn [2], bài viết đề cập rằng miếng bọt biển có thể loại bỏ "khoảng 90% vi nhựa trong nhiều loại nước" khi các điều kiện tối ưu được áp dụng. Tuy nhiên, không phải trong mọi chất lỏng, mà chỉ trong một số loại nước nhất định. Điều này cho thấy hiệu quả của miếng bọt biển trong việc loại bỏ vi nhựa có thể thay đổi tùy vào loại nước và các điều kiện thử nghiệm, do đó không thể khẳng định rằng miếng bọt biển sẽ loại bỏ hoàn toàn 90% vi nhựa trong mọi chất lỏng.
Câu 3 [576444]: Điền cụm từ thích hợp ở đoạn [3] để hoàn thành nhận định sau:
Theo đoạn [3], bọt xốp hút vi nhựa được làm từ [___________] và gelatin. Chúng có khả năng tự [___________] và vô cùng nhẹ.
Đáp án:
Theo đoạn [3], bọt xốp hút vi nhựa được làm từ tinh bột và gelatin. Chúng có khả năng tự phân huỷ sinh học và vô cùng nhẹ.
Câu 4 [576445]: Dòng nào dưới đây không đúng với ứng dụng của miếng bọt biển theo người viết?
A, Xử lí nước thải ở các nhà máy.
B, Lọc vi nhựa ở trong các máy giặt.
C, Hút các vi nhựa trong đại dương.
D, Lọc vi nhựa trong nước máy.
Đáp án: D. Lọc vi nhựa trong nước máy
Trong bài viết, người viết chỉ đề cập đến việc sử dụng miếng bọt biển để xử lý nước thải, lọc vi nhựa trong các máy giặt và tiềm năng ứng dụng trong đại dương, nhưng không nhắc đến việc lọc vi nhựa trong nước máy. Đáp án: D
Câu 5 [576446]: Cụm từ công trình nghiên cứu này được in đậm trong đoạn [5] ý chỉ công trình nghiên cứu của ai?
A, Adlhart.
B, Guoqing Wang.
C, Adlhart và cộng sự.
D, Guoqing Wang và cộng sự.
Đáp án: D. Guoqing Wang và cộng sự
Trong đoạn này, Guoqing Wang là người đồng tác giả nghiên cứu và được nhắc đến là người thực hiện công trình nghiên cứu liên quan đến miếng bọt biển hút vi nhựa. Đáp án: D
Câu 6 [576447]: Từ nội dung đoạn [5], có bao nhiêu cơ chế tạo nên miếng bọt biển trong công trình nghiên cứu của các nhà khoa học?
A, Một cơ chế.
B, Hai cơ chế.
C, Ba cơ chế.
D, Không có thông tin.
Từ nội dung đoạn [5], có hai cơ chế tạo nên miếng bọt biển trong công trình nghiên cứu của các nhà khoa học.
Cơ chế đầu tiên là cơ chế "xoắn ép và giải phóng", giúp vi nhựa bị bẫy bên trong các lỗ rỗng của bọt biển. Cơ chế thứ hai là "tương tác của lực tĩnh điện", khiến cho một số hạt vi nhựa bám dính vào bọt biển khi chúng nhẹ và trôi trên mặt nước.
Do đó, đáp án đúng là:
B. Hai cơ chế. Đáp án: B
Câu 7 [576448]: Từ đoạn [5], [6], đề xuất của Adlhart về một dạng bọt biển khác sử dụng chitosan dựa trên cơ sở nào?
A, Chitosan là một loại đường khai thác từ vỏ của các động vật giáp xác – để tạo ra cấu trúc của bọt biển.
B, Chitosan chưa được sử dụng rộng rãi ở quy mô thương mại.
C, Tinh bột và gelatin là hai thành phần quan trọng của ngành công nghiệp thực phẩm.
D, Tinh bột và gelatin có thể sẽ gây ra sự cạnh tranh cho việc sản xuất bọt biển.
Đề xuất của Adlhart về một dạng bọt biển khác sử dụng chitosan dựa trên cơ sở rằng tinh bột và gelatin là hai thành phần quan trọng của ngành công nghiệp thực phẩm, do đó việc sản xuất bọt biển từ các thành phần này có thể gặp phải sự cạnh tranh trong tương lai.
Chitosan, một loại đường khai thác từ vỏ của các động vật giáp xác, là một nguyên liệu thay thế không gặp phải vấn đề này vì chưa được sử dụng rộng rãi ở quy mô thương mại.
Vì vậy, đáp án đúng là:
C. Tinh bột và gelatin là hai thành phần quan trọng của ngành công nghiệp thực phẩm. Đáp án: C
Câu 8 [576449]: Đáp án nào không đúng với đặc điểm của các phát minh bọt biển trong bài đọc?
A, Có các lỗ rỗng.
B, Có cấu trúc hình răng cưa.
C, Có tác dụng giống miếng lọc.
D, Có hình con sò.
Đáp án: D. Có hình con sò là không đúng với đặc điểm của các phát minh bọt biển trong bài đọc.
Trong bài đọc, miếng bọt biển có cấu trúc răng cưa (không phải hình con sò) và có các lỗ rỗng để hút và lọc vi nhựa. Bên cạnh đó, các bọt biển có tác dụng giống miếng lọc. Tuy nhiên, không có thông tin nào nói rằng chúng có hình dạng giống con sò. Đáp án: D
Câu 9 [576450]: Từ quan điểm của Anett Georgi và Alice Horton được tác giả nhắc đến ở đoạn số [7], [8], có thể rút ra kết luận Việc ứng dụng các nghiên cứu bọt biển với mục tiêu hút các hạt vi nhựa ở đại dương là điều không dễ dàng.
Đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Đáp án: A. Đúng
Từ quan điểm của Anett Georgi và Alice Horton, có thể rút ra kết luận rằng việc ứng dụng các nghiên cứu bọt biển để hút các hạt vi nhựa ở đại dương không dễ dàng. Cụ thể:
• Anett Georgi nhấn mạnh rằng việc làm sạch ô nhiễm vi nhựa trong đại dương phải bắt đầu từ việc hướng đến các nhà máy xử lý chất thải, nơi không có công nghệ lọc vi nhựa hiện tại.
• Alice Horton cũng cho rằng các công nghệ bọt biển mới còn rất đắt đỏ và khó áp dụng ở quy mô lớn.
Điều này cho thấy việc ứng dụng rộng rãi và hiệu quả các bọt biển để thu thập vi nhựa trong đại dương gặp phải nhiều khó khăn và thách thức. Đáp án: A
Câu 10 [576451]: Kéo thả đáp án để hoàn thành nhận định dưới đây:
đại dương      bước đầu tiên       bước cuối cùng       đắt đỏ
Trong nhiều thiên niên kỷ, con người sử dụng bọt biển để làm sạch, đựng nước, ... nhưng công nghệ bọt biển mới của các nhà khoa học còn [___________] ở quy mô lớn để ứng dụng ở phạm vi [___________] như kế hoạch nhưng chúng ta cần nỗ lực thực hiện nó ở những [___________].
Đáp án:
Trong nhiều thiên niên kỉ, con người sử dụng bọt biển để làm sạch, đựng nước,... nhưng công nghệ bọt biển mới của các nhà khoa học còn đắt đỏ ở quy mô lớn để ứng dụng ở phạm vi đại dương như kế hoạch nhưng chúng ta cần nỗ lực thực hiện nó ở những bước đầu tiên.